Hệ thống ngân hàng thương mại với phát triển bền vững ở Việt Nam

24/11/2025, 13:58
chia sẻ bài viết

TCDN - Bài viết tập trung phân tích, đánh giá về vai trò của hệ thống các NHTM với phát triển bền vững ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị.

Tóm tắt:

Việc chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” đã và đang xu hướng, là lựa chọn chính sách trọng tâm của nhiều quốc gia nhằm giải quyết các thách thức môi trường, thực hiện phát triển bền vững nền kinh tế. Hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình này. Bài viết tập trung phân tích, đánh giá về vai trò của hệ thống các NHTM với phát triển bền vững ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị.

1. Vai trò của hệ thống NHTM đối với phát triển bền vững

Những áp lực ngày càng lớn của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đã cho thấy đây là yêu cầu cấp thiết, không thể trì hoãn, buộc mỗi quốc gia trên thế giới phải lựa chọn tăng trưởng xanh. Tăng trưởng xanh được coi là phương thức duy nhất để phát triển bền vững, có thể đáp ứng các nhu cầu hiện tại nhưng không tác động tiêu cực đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Để đạt được mục tiêu này, hệ thống các NHTM có vai trò vô cùng quan trọng. Với vai trò là trung gian tài chính, hệ thống các NHTM là chủ thể cung ứng nguồn vốn tín dụng xanh cho nền kinh tế. Theo đó, các NHTM phải thực hiện thẩm định các yêu cầu phát triển bền vững, trong đó có các vấn đề liên quan đến rủi ro môi trường và xã hội đối với các dự án đầu tư vay vốn. Thông qua hoạt động cấp tín dụng, hệ thống các NHTM góp phần “xanh hóa” dòng vốn đầu tư, ưu tiên phát triển các dự án đầu tư xanh, đảm bảo các điều kiện về môi trường. Cùng với đó, việc đẩy mạnh triển khai các dịch vụ ngân hàng phân phối qua kênh điện tử như Internet Banking, Mobile Banking và các phương thức giao dịch tự động, kết hợp với việc triển khai nhiều chính sách ưu đãi khách hàng khi sử dụng giao dịch qua phương thứ mới đã thúc đẩy khách hành chuyển dịch từ giao dịch qua qua kênh vật lý truyền thống sang giao dịch qua kênh số giúp tiết kiệm tài nguyên, giảm mức độ phát thải. Đồng thời, trong nội bộ hoạt động ngân hàng, việc số hóa các nghiệp vụ, các qui trình, giảm đáng kể việc sử dụng, in ấn chứng từ giấy, cùng với việc ban hành áp dụng các qui định về tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu góp phần đáng kể vào “xanh hóa” các hoạt động ngân hàng và nền kinh tế

2. Thực tiễn tại Việt Nam

Vai trò và sự tham gia, đóng góp của hệ thống các NHTM ở Việt Nam đối với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững thể hiện:

* Một là, về nhận thức của các NHTM:

Các NHTM đã tích cực nhận thức rõ vai trò của mình đối với tăng trưởng và phát triển bền vững. Kết quả là nhiều NHTM đã triển khai cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh; thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ, tăng cường hợp tác với các công ty fintech, xây dựng hệ sinh thái số có hiệu quả góp phần giảm tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt. Trong chiến lược kinh doanh của nhiều NHTM đã có sự lồng ghép yếu tố ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị), các cam kết và tiêu chuẩn ESG được cụ thể hóa thành các mục tiêu và hành động, gắn kết với các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Nhiều ngân hàng cũng đã ban hành “Khung tín dụng xanh”, “Khung khoản vay bền vững”, trong đó ban hành rõ các qui định, qui trình sử dụng và quản lí nguồn vốn vay dành cho dự án thuộc các lĩnh vực xanh, giảm phát thải.

* Hai là, trong hoạt động cấp tín dụng, các NHTM đã mở rộng đánh giá rủi ro môi trường và xã hội.

Ngoài việc mở rộng cấp tín dụng xanh, các NHTM Việt Nam cũng chú trọng thiết lập hệ thống quản lí rủi ro môi trường xã hội như một bộ lọc giúp đảm bảo định hướng dòng vốn tín dụng không chảy vào các khu vực có rủi ro môi trường xã hội cao, cùng với đó bổ sung rủi ro môi trường xã hội vào trong cấu trúc quản lý rủi ro tại ngân hàng. Với việc ban hành Thông tư 17/2022/TT-NHNN có hiệu lực từ tháng 6/2023 - là yêu cầu bắt buộc các NHTM thực hiện “Quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng”. Đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế được các NHTM thực hiện đánh giá rủi ro môi trường - xã hội đạt 3,6 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 20%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế, tăng hơn 26% so với cuối năm 2023.

Nếu năm 2015 chỉ có dưới 10% NHTM xây dựng và triển khai hệ thống quản lý rủi ro môi trường xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, thì đến cuối năm 2024 đã có: 100% các NHTM đã xây dựng quy định nội bộ và thực hiện đánh giá rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng; 100% NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã thực hiện đánh giá rủi ro môi trường đối với một phần hoặc toàn bộ các khoản vay; 17 NHTM có đơn vị/bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường - xã hội và 57 TCTD thực hiện đánh giá rủi ro môi trường xã hội trong cấp tín dụng

z7257120306302_c5325c885196878a480965df88248df5

* Ba là, tăng trưởng tín dụng xanh của hệ thống bước đầu đạt kết quả đáng ghi nhận

Đến hết 2024, đã có 100% các NHTM có cấp tín dụng xanh, trong đó có hơn 33% các NHTM có dư nợ tín dụng xanh trên 1.000 tỷ đồng và 31% các NHTM có số dư nợ tín dụng từ 100 tỷ đồng đến 1.000 tỷ đồng. Tổng dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng với tốc độ cao, nếu năm 2021 đạt hơn gần 183.000 tỷ đồng, năm 2022 đạt 280.956 tỷ đồng, tăng 54% so với năm 2021; năm 2023 đạt gần 350.000 tỷ đồng tăng 23% so với năm 2022 và đến cuối năm 2024 tổng dư nợ tín dụng xanh của hệ thống NHTM đạt gần 400.000 tỷ đồng.

z7257120339342_1a8179e8bea715bb8b990b029e23f6c7

Từ năm 2017-2024, dư nợ cấp tín dụng xanh có mức tăng trưởng bình quân đạt gần 22%/năm. Đến cuối năm 2024 đã có: 57 NHTM phát sinh dư nợ tín dụng xanh, đạt gần 690.000 tỷ đồng, tăng 11% so với cuối năm 2023, chiếm khoảng 4,6% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm xấp xỉ 43%) và nông nghiệp xanh (gần 30%). Mức tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh toàn hệ thống giai đoạn 2017-2024 trung bình đạt 21,2%/năm. Trong đó, số lượng các NHTM đã xây dựng các sản phẩm, các chương trình tín dụng xanh phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh.

Theo Báo cáo của VietResearch (2025) đến cuối 2024 nhóm ngân hàng có quy mô vốn điều lệ trên 30.000 tỷ đồng nằm trong top 10 ngân hàng - ESG Việt Nam xanh gồm: BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Agribank, Techcombank, MB, VP Bank, ACB, SHB và HD Bank; nhóm 10 ngân hàng có quy mô vốn điều lệ dưới 30.000 tỷ đồng thuộc top gồm: MSB, LP Bank, Sacombank, TP Bank, SeaBank, VIB, OCB, Vieta Bank; PV Bank; Kienlong Bank. Các lĩnh vực cấp tín dụng xanh gồm 12 lĩnh vực gồm: nông nghiệp; lâm nghiệp bền vững; công nghiệp xanh; năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; tái chế, sử dụng các nguồn tài nguyên; xử lý chất thải và phòng chống ô nhiễm; bảo vệ môi trường thiên nhiên, khôi phục sinh thái và phòng chống thiên tai; quản lý nước bền vững tại đô thị và nông thôn; công trình xây dựng xanh; giao thông bền vững; cung cấp các dịch vụ bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng; lĩnh vực xanh khác.

* Bốn là, công khai, minh bạch thông tin trong nội bộ ngân hàng và với các bên liên quan các cam kết nhằm kiến tạo một xã hội phát triển bền vững.

Từ cuối năm 2017 đến nay, các NHTM đều thực hiện báo cáo đối với NHNN về tình hình cấp tín dụng xanh và đánh giá rủi ro môi trường xã hội trong hoạt động cấp tín dụng theo hướng dẫn của Công văn 9050/NHNN-TD ngày 3/11/2017. Một số NHTM gồm Techcombank, VP Bank, MB… đã triển khai chế độ báo cáo định kỳ do cán bộ quản lí rủi ro MTXH thực hiện để phục vụ công tác điều hành nội bộ. Đến cuối năm 2024 nhiều NHTM đề cập đến nội dung phát triển bền vững, tín dụng xanh trong báo cáo thường niên, như: Vietcombank, BIDV, Agribank, Vietinbank, MB, Nam á Bank, SHB, TPbank, Vpbank, Eximbank…

* Năm là, đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng góp phần giảm phát thải và tiết kiệm tài nguyên:

Chiến lược chuyển đổi số đã được nhiều NHTM xây dựng và triển khai. Quá trình này diễn ra mạnh mẽ đặc biệt trong và sau Đại dịch Covid19. Các NHTM chú trọng dành nguồn lực đầu tư máy móc trang thiết bị, hệ thống CNTT ngân hàng. Tích cực triển khai dịch vụ ứng dụng nền tảng công nghệ; tăng cường xây dựng hệ sinh thái số thông qua việc kết nối với các ngành: công an, thuế, hải quan, các lĩnh vực, các tập đoàn, các đối tác... Để cung ứng dịch vụ xuyên suốt và an toàn. Đến hết 2024, gần 90% người trưởng thành đã có tài khoản tiền gửi thanh toán tại NH, trên 95% các sản phẩm dịch vụ, các hoạt động ngân hàng triển trên nền tảng số: tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn; mở và sử dụng tài khoản tiền gửi thanh toán; thẻ ngân hàng; ví điện tử; chuyển tiền; quản lý nhân sự; tài chính - kế toán…; giao dịch thanh toán qua ngân hàng bình quân qua các kênh thẻ ngân hàng, Internet Banking, Mobile Banking đạt kỷ lục trên 26,2 triệu giao dịch với giá trị trên 166.000 tỷ đồng/ngày.

3. Một số khó khăn và thách thức

Thực tiễn triển khai chiến lược tín dụng xanh, ngân hàng xanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức ảnh hưởng không nhỏ đến việc đạt mục tiêu tăng trưởng 10% tổng dư nợ tín dụng xanh vào năm 2025. Những thách thức này tập trung chủ yếu vào nội dung: đánh giá và quản lý rủi ro MTXH; việc tích hợp các yếu tố xanh vào chiến lược kinh doanh và quy trình nội bộ của ngân hàng; đặc biệt là khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng xanh;…Bên cạnh đó, những vướng mắc về khung pháp lý; nhận thức và năng lực của chủ đầu tư; những vấn đề từ người dùng … đặt ra nhiều rào cản cho các NHTM, Cụ thể:

(i) Về khung pháy lý: Đến nay, nước ta chưa có một khung pháp lý cụ thể để quy định rõ các ngành, nghề, các lĩnh vực thuộc tín dụng xanh, các tiêu chí để phân loại dự án xanh, đồng thời, cũng chưa xây dựng được các tiêu chí đánh giá tác động môi trường - ĐTM cho các dự án này. Thực trạng này cản trở đáng kể đối với các NHTM trong quá trình thẩm định, kiểm soát các khoản vay.

(ii) Hệ thống các NHTM: Đội ngũ thẩm định tín dụng tại các NHTM còn thiếu kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm trong đánh giá các dự án vay vốn xanh; Khi triển khai nhiều NHTM vẫn qui định khách hàng phải có tài sản đảm bảo thay vì đánh giá theo dòng tiền dự án, thực trạng này làm nhiều các dự án xanh nhưng thiếu tài sản đảm bảo khó có khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng; Các NHTM chưa có bộ phận chuyên trách về đánh giá rủi ro MTXH; Đội ngũ nhân sự tại các NHTM chưa đủ chuyên môn về các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến thẩm định rủi ro môi trường ảnh hưởng đáng kể đến việc triển khai TD xanh.

(iii) Về nguồn vốn tài trợ cho các dự án xanh: Thực trạng hiện nay cho thấy, nguồn vốn huy động của hệ thống NHTM chủ yếu là ngắn hạn trong khi đó, các dự án đầu tư xanh nhiều lĩnh vực cần nguồn vốn trung - dài hạn. Trong khi thị trường trái phiếu xanh còn nhỏ bé thì việc huy động các nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức tài trợ quốc tế rất quan trọng, tuy nhiên nguồn vốn này cũng còn rất hạn chế.

(iv) Khách hàng vay vốn: Nhận thức về lợi ích của các dự án đầu tư xanh đối với các chủ đầu tư còn chưa đầy đủ. Đặc biệt những khó khăn về năng lực tài chính, công nghệ của khách hàng hảnh hưởng lớn đến quá trình triển khai các dự án này. Trong khi vốn đầu tư ban đầu cho các tiêu chuẩn MTXH, tăng trưởng xanh thường cao, làm rào cản lớn đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào các dự án này; đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Giá thành các sản phẩm xanh hiện còn cao, ảnh hưởng đến quyết định của người tiêu dùng, gây khó khăn không nhỏ đến thị trường đầu ra cho nhiều doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm này …

4. Một số khuyến nghị

Nhìn từ lý thuyết đến thực tiễn có thể thấy, để phát huy vai trò của hệ thống NHTM trong thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững một số khuyến nghị cần tiếp tục được xem xét là:

* Thứ nhất: Hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý liên quan đến tín dụng xanh. Trong đó, cần xây dựng và ban hành các tiêu chí về dự án xanh một cách rõ ràng; ban hành danh mục dự án xanh cho từng lĩnh vực kinh tế. Đây là nền tảng để NHTM có cơ sở đưa ra các quyết định: tiếp cận, đánh giá các dự án này. Đồng thời, cần quy định mở rộng các loại dự án có đánh giá tác động môi trường khi triển khi; song song với việc ban hành chính sách khuyến khích các chủ đầu tư thực hiện phân tích, báo cáo tác động môi trường thông qua các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực môi trường, ban hành các qui định về kiểm toán môi trường…

* Thứ hai, Tăng cường sự phối hợp của các Bộ, ngành liên quan để sớm ban hành những quy định về tài chính xanh cho tất cả tổ chức tài chính; Tăng cường hợp tác, huy động nguồn lực tài chính xanh từ các tổ chức tài chính quốc tế.

* Thứ ba, NHNN Việt Nam cần tiếp tục kiện toàn hệ thống văn bản pháp lý và bổ sung những cơ chế có tính chất nổi trội, khuyến khích và thúc đẩy các ngân hàng thành viên phát triển tín dụng xanh và xanh hóa hoạt động ngân hàng như:“Ban hành hướng dẫn về hoạt động ngân hàng xanh; Hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội tại các văn bản quy định pháp lý liên quan, tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế; Thực hiện đánh giá rủi ro tài chính liên quan đến môi trường, lồng ghép các rủi ro này vào khuôn khổ quản lý rủi ro vĩ mô thị trường tiền tệ; Phối hợp với các bộ, ngành chức năng để phát triển hệ thống thông tin dữ liệu phục vụ dự báo, cảnh báo và quản lý rủi ro môi trường, biến đổi khí hậu; Tăng cường vai trò thanh tra, giám sát ngân hàng trong việc hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc thực thi chính sách”

* Thứ tư, hệ thống các NHTM chú trọng hơn nữa đến việc bồi dưỡng, bổ sung kiến thức, kỹ năng chuyên môn sâu cho đội ngũ thẩm định, đánh giá, quản lí rủi ro môi trường, nhằm đảm bảo việc thẩm định các dự án xanh diễn ra chặt chẽ và hiệu quả. Đồng thời, việc thành lập cơ quan chuyên trách riêng biệt hay phòng chuyên biệt trong NHTM sẽ giúp theo dõi quá trình triển khai tín dụng xanh, đảm bảo tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn về môi trường; tăng cường năng lực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế. Thực hiện quản trị rủi ro ESG, áp dụng các nguyên tắc phát triển ngân hàng bền vững. 

* Thứ năm, gia tăng hợp tác quốc tế và huy động vốn xanh: Tài chính xanh đang trở thành xu hướng toàn cầu với tốc độ phát triển nhanh chóng. Trên thế giới, thị trường trái phiếu xanh đã và đang ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ. Do vậy, các NHTM cần chủ động phát hành trái phiếu xanh đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế để huy động vốn cho các dự án bền vững.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tăng cường năng lực tài chính và nhận thức đầy đủ về lợi ích của các dự án xanh.

5. Kết luận

Để đạt được “Cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 về mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, hệ thống tài chính, trong đó trụ cột là hệ thống ngân hàng phải phát huy vai trò quang trọng của mình. Các chủ trương, chính sách của NHNN chỉ được phát huy khi hệ thống các ngân hàng trung gian và NHTM khác đồng thuận tham gia vào quá trình này. Theo đó, đòi hỏi cần phải có sự phối hợp thực hiện các giải pháp đồng bộ từ các cơ quan quản lý nhà nước, hệ thống các NHTM và các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Nguyễn Thị Hòa (2024), Triển khai ESG trong lĩnh vực ngân hàng góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, Bài đăng trên Tạp chí Ngân hàng (tháng 2/2024)

2. PGS.TS. Nguyễn Kim Anh (2023), Sách chuyên khảo “Ngân hàng với tăng trưởng xanh” Nxb Phụ nữ Việt Nam.

3. NHNN Việt Nam, Báo cáo hoạt động tín dụng

4. Fair Finance Internaitonal (2020), “Cam kết Môi trường - Xã hội - Quản trị trong ngành Ngân hàng: Tổng quan và Phân tích trường hợp mười ngân hàng thương mại Việt Nam”.

5.PGS, TS. Đỗ Phi Hoài, TS. Trần Thị Lan, “Vai trò của hệ thống ngân hàng đối với tăng trưởng xanh”, HTKH Quốc gia - VCFE 2025

TS. Trần Thị Lan – Học viện Tài chính

Tạp chí in số tháng 11/2025

Bạn đang đọc bài viết Hệ thống ngân hàng thương mại với phát triển bền vững ở Việt Nam tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

x