Hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty cho thuê tài chính trực thuộc ngân hàng thương mại tại Việt Nam
TCDN - Mô hình cho thuê tài chính (CTTC) đã dần trở thành kênh vốn khả thi, hiệu quả, phù hợp với khả năng doanh nghiệp không cần thế chấp tài sản. Đặc biệt, các công ty CTTC trực thuộc NHTM giữ vai trò chủ lực trong cung ứng dịch vụ này.
Tóm tắt:
Trong bối cảnh cả nước đang nỗ lực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc phát triển hệ thống tài chính – ngân hàng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm tạo động lực cho tăng trưởng bền vững. Các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục tái cấu trúc và hội nhập, nhu cầu vốn trung – dài hạn để đầu tư thiết bị, máy móc, và chuyển đổi số của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang là cấp thiết. Tuy nhiên, các kênh tài chính truyền thống như tín dụng ngân hàng vẫn tồn tại những hạn chế. Chính vì vậy, mô hình cho thuê tài chính (CTTC) đã dần trở thành kênh vốn khả thi, hiệu quả, phù hợp với khả năng doanh nghiệp không cần thế chấp tài sản. Đặc biệt, các công ty CTTC trực thuộc NHTM giữ vai trò chủ lực trong cung ứng dịch vụ này. Trong bối cảnh đó, việc tổ chức kế toán cho thuê tài chính một cách bài bản, minh bạch và phù hợp với chuẩn mực kế toán hiện hành trở nên cấp thiết, nhằm đảm bảo tính chính xác, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động tài chính – kế toán của các đơn vị này. Mỗi công ty có những đặc trưng, ưu thế riêng và đang dần lớn mạnh và góp phần lớn vào sự phát triển chung của ngành CTTC tại Việt Nam hiện nay. Do đó, vấn đề cần nghiên cứu và đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm khai thác một cách có hiệu quả những thế mạnh của CTTC nói chung và tại các công ty CTTC tại các NHTM nói riêng để biến nó thành một kênh tài trợ vốn trung và dài hạn hữu hiệu cho nền kinh tế là một yêu cầu cần thiết dưới góc độ kế toán.
Về khung pháp lý áp dụng liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính
Hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam hiện được điều chỉnh bởi hệ thống văn bản pháp luật chuyên ngành và các chuẩn mực kế toán liên quan. Cơ sở pháp lý quan trọng là Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), quy định rõ phạm vi hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính (CTTC). Bên cạnh đó, Nghị định số 39/2014/NĐ-CP của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cụ thể hóa điều kiện kinh doanh, nguyên tắc quản trị rủi ro, giới hạn cấp tín dụng, cũng như yêu cầu lập và công bố báo cáo tài chính đối với CTTC.
Về phương diện kế toán, các công ty CTTC tuân thủ Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành kèm Thông tư 200/2014/TT-BTC (đối với doanh nghiệp lớn) hoặc Thông tư 133/2016/TT-BTC (đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa). Các giao dịch cho thuê được hạch toán theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 06 – Thuê tài sản (VAS 06), quy định nguyên tắc phân loại thuê tài chính và thuê hoạt động, cách thức ghi nhận tài sản, nghĩa vụ nợ và phân bổ doanh thu tài chính.
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 06 (VAS 06), cho thuê tài chính là hình thức thuê mà phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu được chuyển giao cho bên thuê, dù quyền sở hữu pháp lý có thể chưa được chuyển ngay. Bên thuê ghi nhận tài sản thuê như tài sản cố định kèm nợ phải trả tương ứng, phân bổ chi phí thuê thành chi phí tài chính và gốc nợ; bên cho thuê ghi nhận khoản phải thu tương đương giá trị đầu tư thuần và doanh thu tài chính theo lãi suất thực tế. Một số công ty (như Vietcombank Leasing, BIDV Leasing) đã thử nghiệm mô hình kế toán theo IFRS 16 để chuẩn bị hội nhập quốc tế, dù chưa bắt buộc.
Hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty CTTC trực thuộc NHTM ở Việt Nam
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến 30/9/2024, cả nước có 10 công ty CTTC ở Việt Nam, trong đó có 8 công ty CTTC vẫn hoạt động liên tục, 6 công ty trực thuộc Ngân hàng thương mại (NHTM), bao gồm: 5 công ty trực thuộc NHTM và một liên doanh có yếu tố liên kết. Các công ty CTTC trực thuộc ngân hàng thương mại bao gồm: BIDV-SuMi TRUST Leasing; Vietcombank Leasing; VietinBank Leasing; Sacombank Leasing; ACB Leasing (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2024). Với tổng dư nợ cho thuê chiếm khoảng 0,5% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống – một tỷ trọng còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực, nơi tỷ lệ này thường dao động 1,5 – 3% (Nguồn: ADB Financial Sector Report, 2023).
Xét về quy mô vốn, hiện nay công ty cho thuê tài chính VietinBank Leasing, Vietcombank Leasing, BIDV Leasing đều có mức vốn điều lệ khoảng 1.000 tỷ đồng – đứng đầu trong các công ty CTTC, tiếp theo là các công ty tài chính còn lại có mức vốn điều lệ đều trên 500 tỷ đồng (ACB Leasing, Sacombank Leasing).
Về quy mô thị trường, tổng dư nợ cho thuê của toàn hệ thống CTTC thuộc NHTM năm 2024 đạt khoảng 28.000 – 30.000 tỷ đồng, chiếm gần 65–70% thị phần cho thuê tài chính trong nước. Tổng dư nợ cho thuê tài chính toàn ngành đến hết quý I/2025 đạt gần 40.700 tỷ đồng (Vietcombank leaising: khoảng 7.000 tỷ đồng; Vietinbank leasing là 4.639 tỷ đồng, BIDV Leasing 5.638 tỷ đồng,...), tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2024 (Nguồn: NHNN, 2025). Ước tính cả năm 2025, quy mô dư nợ có thể đạt khoảng 47.000 – 50.000 tỷ đồng cho thấy lĩnh vực này vẫn còn tiềm năng mở rộng được thể hiện qua bảng số liệu sau:

Về thực tiễn kế toán, hầu hết các CTTC đã triển khai hệ thống kế toán theo Thông tư 200, xây dựng báo cáo tài chính định kỳ theo chuẩn mực, có sự giám sát chặt chẽ từ ngân hàng mẹ, đồng thời từng bước ứng dụng công nghệ thông tin và phần mềm quản trị tài chính (ERP, Core Leasing) vào quy trình hạch toán. Những nỗ lực này góp phần nâng cao tính chính xác, kịp thời và minh bạch của dữ liệu kế toán. Tuy vậy, vẫn tồn tại hạn chế: việc phân loại thuê tài chính – thuê hoạt động còn phụ thuộc nhiều vào phán đoán kế toán; báo cáo tài chính chưa phản ánh đầy đủ các nghĩa vụ tiềm ẩn ngoài bảng cân đối; và chưa đồng bộ với thông lệ quốc tế, gây khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài khi so sánh.
Những tồn tại trong công tác kế toán cho thuê tài chính
Thứ nhất, Khung pháp lý về kế toán liên quan đến cho thuê tài chính như chuẩn mực kế toán Việt Nam chưa cập nhật IFRS 16 và IFRS 9.
Chuẩn mực trong nước còn khoảng cách với quốc tế: trong khi IFRS 16 yêu cầu ghi nhận hầu hết hợp đồng thuê dưới dạng tài sản quyền sử dụng và nghĩa vụ thuê, VAS 06 vẫn phân biệt thuê tài chính – thuê hoạt động, dẫn tới sự khác biệt lớn trong báo cáo tài chính. Theo khảo sát Bộ Tài chính (2022), chỉ 25% doanh nghiệp tài chính – cho thuê có thử nghiệm lập báo cáo song song theo IFRS, chủ yếu là doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Khoảng cách này cho thấy nhu cầu tiếp tục hoàn thiện chuẩn mực kế toán trong nước nhằm nâng cao tính minh bạch, khả năng so sánh và đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Thứ hai, Phần mềm kế toán và quản lý hợp đồng chưa tích hợp đầy đủ.
Các CTTC hiện nay (như VietinBank Leasing, BIDV Leasing, Vietcombank Leasing, ACB Leasing…) đều triển khai phần mềm kế toán – tài chính nội bộ, thường được phát triển dựa trên các nền tảng ERP (SAP, T24, hoặc phần mềm do ngân hàng mẹ cung cấp). Tuy nhiên, hầu hết phần mềm kế toán vẫn vận hành tách biệt với: Hệ thống quản lý hợp đồng cho thuê (Leasing Management System); Hệ thống quản lý rủi ro tín dụng (Credit Risk Management / CRM); Kho dữ liệu khách hàng tập trung (Customer Data Warehouse). Điều này dẫn đến tình trạng dữ liệu phân tán, khó đồng bộ, làm giảm tính kịp thời và chính xác của thông tin kế toán.
Thứ ba, Thiếu chuẩn hóa báo cáo hợp nhất với ngân hàng mẹ
Khác biệt trong các chính sách kế toán và phương pháp ghi nhận dẫn đến việc khi hợp nhất báo cáo tài chính, phải điều chỉnh lại nhiều chỉ tiêu, gây chậm trễ và tăng khối lượng công việc kế toán hợp nhất. Cụ thể: các công ty CTTC thường áp dụng chính sách kế toán riêng, dựa trên hướng dẫn và đặc thù hoạt động của mỗi công ty. Trong khi đó, ngân hàng mẹ thường tuân thủ theo chuẩn mực ngân hàng (VAS hoặc IFRS chuyển đổi).
Thiếu cơ chế phối hợp giữa bộ phận kế toán hợp nhất và công ty con. Trong thực tiễn, quy trình trao đổi dữ liệu và đối chiếu báo cáo giữa phòng kế toán hợp nhất của ngân hàng mẹ và phòng kế toán tại công ty cho thuê tài chính còn hạn chế. Các báo cáo định kỳ thường gửi qua email hoặc file Excel, thiếu công cụ đối chiếu tự động, dẫn đến sai sót số liệu, trùng lặp hoặc bỏ sót giao dịch nội bộ, làm giảm tính chính xác của báo cáo hợp nhất cuối cùng.
Giải pháp và định hướng hoàn thiện công tác kế toán cho thuê tài chính
Thứ nhất, Chuẩn hóa quy trình hạch toán, áp dụng thống nhất VAS 06, xây dựng báo cáo song song VAS – IFRS.
Cần xây dựng hệ thống báo cáo song song VAS – IFRS, tiến tới áp dụng IFRS 16 theo lộ trình quốc gia 2025–2030; kiến nghị NHNN thiết lập cơ sở dữ liệu tập trung ngành cho thuê tài chính, tạo điều kiện so sánh, phân tích vĩ mô và thu hút nhà đầu tư. Kinh nghiệm tại Hàn Quốc cho thấy áp dụng IFRS giúp tăng niềm tin thị trường và thu hút dòng vốn ngoại từ 10–15% trong 3 năm đầu triển khai – một bài học đáng tham khảo cho Việt Nam. Từ phân tích thực trạng trên cho thấy, việc tiệm cận IFRS 16, hoàn thiện cơ sở pháp lý, chuẩn hóa quy trình kế toán và tăng cường ứng dụng công nghệ là yêu cầu cấp thiết nhằm mở rộng quy mô, nâng cao tính cạnh tranh và đóng góp của ngành cho thuê tài chính trong chiến lược phát triển hệ thống tài chính quốc gia.
Thứ hai, Xây dựng hệ thống kế toán tích hợp với dữ liệu tín dụng và quản lý hợp đồng.
Các công ty CTTC trực thuộc ngân hàng thương mại ở Việt Nam cần xây dựng hệ thống kế toán tích hợp với dữ liệu tín dụng và quản lý, cụ thể: Một là, Tích hợp hệ thống kế toán với Core Leasing và CRM, đảm bảo luân chuyển dữ liệu hai chiều (tự động ghi nhận doanh thu, chi phí, dự phòng); Hai là, Xây dựng kho dữ liệu tập trung (Data Warehouse) cho toàn bộ công ty con và ngân hàng mẹ, chuẩn hóa cấu trúc dữ liệu kế toán – tín dụng – khách hàng; Ba là, Áp dụng công nghệ BI (Business Intelligence) để tạo báo cáo kế toán – rủi ro tổng hợp theo thời gian thực; Bốn là, Chuẩn hóa quy trình kế toán – tín dụng liên phòng, giảm thao tác nhập liệu trùng lặp.
Thứ ba, Chuẩn hóa chỉ tiêu kế toán nội bộ giữa ngân hàng mẹ và công ty con.
Triển khai hệ thống kế toán hợp nhất tích hợp (ERP – Financial Consolidation) kết nối trực tiếp với Core Banking; Chuẩn hóa chính sách kế toán nội bộ giữa ngân hàng mẹ và công ty con theo chuẩn IFRS hoặc chuẩn kế toán hợp nhất nội bộ thống nhất; Xây dựng quy trình đối chiếu và xác nhận giao dịch nội bộ định kỳ, bảo đảm tính đồng nhất của dữ liệu; Tăng cường đào tạo cán bộ kế toán hợp nhất về chuẩn mực quốc tế và công cụ báo cáo tập đoàn.
Thứ tư, Đào tạo nguồn nhân lực kế toán đạt chuẩn quốc tế, là giải pháp cấp thiết.
Tăng cường kiểm toán nội bộ; ứng dụng phần mềm kế toán – tài chính ERP/IFRS-ready giúp rút ngắn thời gian lập báo cáo (hiện nhiều CTTC đã giảm xuống còn <10 ngày/kỳ). Song song, nâng cao chất lượng nhân lực: tỷ lệ kế toán viên được đào tạo IFRS mới đạt 18% (Bộ Tài chính, 2023), cần đẩy mạnh đào tạo để đạt mức tối thiểu 40–50% vào 2027.
Kế toán hoạt động cho thuê tài chính tại các công ty CTTC trực thuộc NHTM là mắt xích quan trọng bảo đảm tính minh bạch, an toàn của thị trường tài chính và hỗ trợ ngân hàng mẹ trong quản trị rủi ro, hoạch định chiến lược tín dụng. Dù đã đạt được tiến bộ về áp dụng Thông tư 200/2014/TT-BTC, VAS 06 và triển khai báo cáo định kỳ, thực tiễn cho thấy vẫn còn khoảng cách đáng kể so với chuẩn mực quốc tế IFRS 16 – đặc biệt ở việc ghi nhận tài sản quyền sử dụng, nghĩa vụ thuê và trình bày nghĩa vụ nợ ngoài bảng cân đối kế toán. vennnn
Ngân hàng Nhà nước đã nhiều lần nhấn mạnh yêu cầu tăng cường minh bạch thông tin trong hoạt động cho thuê tài chính. Theo phát biểu của Phó Thống đốc NHNN Phạm Tiến Dũng tại Hội nghị Toàn ngành Tài chính – Ngân hàng năm 2024: “Đổi mới hệ thống kế toán, từng bước áp dụng IFRS theo lộ trình quốc gia không chỉ là yêu cầu hội nhập, mà còn là điều kiện cần để tăng sức chống chịu của hệ thống tài chính và nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các định chế trung gian.”
Kết luận
Kế toán CTTC tại các công ty trực thuộc NHTM ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế so với chuẩn mực quốc tế, nhưng tiềm năng tăng trưởng là rất lớn. Có thể khẳng định, việc hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao chất lượng kế toán CTTC không chỉ giúp CTTC nâng cao hiệu quả quản trị, mà còn góp phần xây dựng một thị trường tài chính – tín dụng minh bạch, an toàn và hội nhập sâu rộng, phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2030 được phê duyệt tại Quyết định 986/QĐ-TTg.
Tài liệu tham khảo:
1. Học viện tài chính (2006), Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng trung ương, NXB Tài chính.
2. Học viện tài chính (2007), Giáo trình kế toán ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
3. Nghị định số 39/2014/NĐ-CP của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của NHNN
4. Quyết định số 986/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
5. Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 06 – Thuê tài sản
6. Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế số 16 - IFRS 16 – Thuê tài sản
7. Các websibe: sbv.gov.vn,…
TS. Trần Thị Tuyết – Học viện Tài chính
Tạp chí in số tháng 10/2025
email: [email protected], hotline: 086 508 6899
Tag:











