Kinh tế thị trường với phát triển sức sản xuất trong kỷ nguyên số ở  Việt Nam hiện nay

24/04/2025, 10:56

TCDN - Trải qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, năng suất lao động của nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, chất lượng tăng trưởng chưa cao.

Tóm tắt:

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, lực lượng sản xuất được phát triển với mục tiêu giải phóng và tối ưu hóa tiềm năng kinh tế, đồng thời gắn liền với định hướng công bằng và phát triển bền vững. Trải qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, năng suất lao động của nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, chất lượng tăng trưởng chưa cao. Để tạo cơ sở cho Việt Nam bước vào kỷ nguyên số, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chúng ta cần tìm ra những giải pháp hiệu quả để giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh và bền vững.

1. Mở đầu

Theo Marx, "sức sản xuất" bao gồm toàn bộ các yếu tố vật chất và phi vật chất được sử dụng trong quá trình sản xuất, như lao động con người, công cụ lao động, kỹ thuật sản xuất, và kỹ năng. Nó phản ánh năng lực sản xuất của một xã hội tại một giai đoạn nhất định, chịu ảnh hưởng bởi cả công nghệ và cách tổ chức sản xuất. Sức sản xuất là một bộ phận của lực lượng sản xuất, phản ánh năng lực sáng tạo và cải tạo thế giới tự nhiên của con người. Mô hình KTTT định hướng XHCN của Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội làm cho Việt Nam tiến xa trong công cuộc xây dựng đất nước hiện đại và bền vững

2. Nội dung

2.1.Sức sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

2.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được chính thức sử dụng trong các văn kiện Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo đó, “kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Tiếp đó, Đại hội XI (2011) của Đảng khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có các yếu tố vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quan hệ sản xuất nhằm xây dựng kiến trúc thượng tầng, chế độ chính trị theo mô hình chủ nghĩa xã hội vừa đảm bảo yêu cầu của một nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.

Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được khắc họa rõ nét và đầy đủ hơn tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016), theo đó, “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đến Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), Đảng đã khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”.

Về đặc điểm, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế, vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả… vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến”.

2.1.2. Phát triển sức sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Bằng mô hình này sức sản xuất của xã hội đã có sự định hình và phát triển rõ rệt và mạnh mẽ.

Một là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có vai trò giải phóng tiềm năng sản xuất thông qua việc tạo môi trường thuận lợi để phát huy tối đa các nguồn lực kinh tế, bao gồm nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và vốn đầu tư. Sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa giúp khai thác tiềm năng sản xuất hiệu quả hơn, đảm bảo sự cân bằng giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.

Hai là, nền kinh tế thị trường khuyến khích cạnh tranh, dẫn đến thúc đẩy việc đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Định hướng xã hội chủ nghĩa đảm bảo rằng các lợi ích từ đổi mới được phân phối công bằng.

Ba là, việc thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa huy động được mọi thành phần kinh tế trong phát triển kinh tế, xã hội của đất nước thông qua các chính sách khuyến khích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, từ kinh tế nhà nước, tư nhân, đến kinh tế tập thể. Điều này không chỉ mở rộng quy mô sản xuất mà còn đa dạng hóa các hình thức kinh doanh, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển lâu dài.

Bốn là, sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các hiệp định thương mại và đầu tư, từ đó tăng cường cơ hội tiếp cận thị trường và công nghệ toàn cầu, góp phần nâng cao sức sản xuất quốc gia.

Năm là, cơ chế thị trường giúp loại bỏ các yếu tố bao cấp và quan liêu, làm cho việc phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn. Đồng thời, định hướng xã hội chủ nghĩa giúp quản lý các tác động tiêu cực của thị trường, như bất bình đẳng kinh tế hoặc khai thác tài nguyên quá mức. Việc phát triển lực lượng sản xuất phải đảm bảo không chỉ lợi ích kinh tế mà còn các mục tiêu xã hội, như giảm bất bình đẳng, bảo vệ môi trường và duy trì ổn định xã hội. Nhờ đó, nền kinh tế có thể phát triển bền vững hơn về cả kinh tế, xã hội, và môi trường

2.1.3.Thực trạng sức sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Qua gần 40 năm đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc giải phóng sức sản xuất và đặt nền móng để đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ. Cụ thể:

Thứ nhất là về tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều năm, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao, vượt qua nhiều nước trong khu vực. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 5,7-5,9%/năm, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới; quy mô nền kinh tế tăng 1,45 lần, ước đạt 500 tỉ USD vào năm 2025. Đồng thời, cơ cấu ngành cũng chuyển dịch theo hướng giảm dần vào ngành phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, lao động thủ công giá rẻ, thay vào đó là các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Sự sụt giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP (từ 38,6% (1986) xuống còn 11,96% (2023)kéo theo sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Năm 2023, khu vực dịch vụ chiếm 42,54% (so với 33,06% năm 1986), khu vực công nghiệp xây dựng chiếm 37,12%% (so với 28,8% năm 1986); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53% (Tô Lâm, 2024).

Thứ hai là sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp. Qua gần 40 năm, từ chỗ phụ thuộc chủ yếu khu vực kinh tế nhà nước, Việt Nam đã phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với tỷ trọng đóng góp ngày càng cao của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP. Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 40 - 43% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động, góp phần quan trọng trong huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước (Nguyễn Hạnh, 2024).

Thứ ba sự phát triển của lực lượng lao động cấu phần quan trọng nhất của lực lượng sản xuất đã có xu hướng gia tăng. Lực lượng lao động tăng từ 27,874 triệu người (năm 1986) lên 52,4 triệu người (năm 2023), tham gia vào tất cả các thành phần kinh tế, các ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Về cơ cấu ngành nghề, năm 2023, lao động có việc làm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 13,81873 triệu người, giảm 90,87 nghìn người, tương ứng giảm 0,65% so với năm trước; lao động khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,1751 triệu người, tăng 200,7 nghìn người, tương ứng tăng 1,18%; lao động khu vực dịch vụ với 20,3939 triệu người, tăng 601,4 nghìn người, tương ứng tăng 3,05% và duy trì mức tăng cao nhất so với 2 khu vực còn lại.

Cùng với sự gia tăng về số lượng, Trình độ học vấn của người lao động Việt Nam không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ngày càng được cải thiện.

Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao. Trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn và điện toán đám mây đang dần trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành, lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng số, đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Mạng lưới viễn thông và internet băng thông rộng phủ sóng rộng khắp cả nước, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

Thứ tư là nâng cao năng suất lao động. Cùng với sự gia tăng về số lượng và chất lượng lao động, năng suất lao động đã tăng đều qua các năm kể cả trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19, tốc độ tăng năng suất lao động vẫn đạt mức 4,71%, qua đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng tăng trưởng. Mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. Năng suất các nhân tố tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng giai đoạn 2021-2023 ước đạt khoảng 35,3 - 46,09%. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu không ngừng cải thiện, Việt Nam thuộc nhóm 40 quốc gia hàng đầu thế giới. Mức chi cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong GDP ngày càng cao, đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm trên 60% GDP. Tỷ trọng đóng góp của ngành chuyên môn, khoa học và công nghệ vào GDP năm 2023 ước đạt 2,15%, tốc độ tăng của ngành chuyên môn khoa học và công nghệ đạt 6,45%. Kinh tế số ngày càng có vai trò quan trọng đối với kinh tế - xã hội thể hiện ở tỷ trọng đóng góp ngày càng cao trong GDP (năm 2023: ngành kinh tế số lõi đạt 7,42%, chiếm 60,19% tổng tỷ trọng của toàn bộ nền kinh tế số.

Thứ năm là nâng cao thu nhập bình quân đầu người. Nếu như năm 1986, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ là 150 USD, xếp thứ 9/10 trong khối Asean thì đến năm 2023, Việt Nam có thu nhập bình quân đầu người đạt gần 4.347 USD/người, thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Còn theo phân loại tính từ 1/7/2024 trở đi, nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao có thu nhập bình quân đầu người từ 4.516 - 14.005 USD/người (Nguyễn Hạnh, 2024). Việc giải phóng sức sản xuất đã góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của người dân Việt Nam.

Những khó khăn, hạn chế còn tồn tại

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc giải phóng sức sản xuất còn có những khó khăn, hạn chế gồm:

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy cao, song nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu, nguy cơ kinh tế Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khó tiệm cận với các nước đang phát triển.

Thứ hai, tăng trưởng của Việt Nam từ năm 2021 đến nay chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu, trong đó khối FDI chiếm trên 70% (tương đương 60% GDP); các doanh nghiệp này nhập khẩu trên 80% linh kiện, thiết bị, chỉ sử dụng những tư liệu sản xuất giản đơn của Việt Nam như lao động, đất đai, nguyên vật liệu cơ bản, không giúp Việt Nam xây dựng công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp nội địa có năng lực cạnh tranh cao trong chuỗi giá trị toàn cầu (doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng chỉ là các sản phẩm giản đơn). Khi thời kỳ dân số vàng kết thúc (khoảng năm 2027-2037), giá nhân công tăng, lợi thế cạnh tranh không còn, FDI dịch chuyển sang nước khác hoặc sụt giảm, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế Việt Nam.

Thứ ba, hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa tối ưu. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế đáng kể, việc phân bổ và sử dụng nguồn lực (đất đai, vốn, lao động) vẫn còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp nhà nước, dù chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, vẫn gặp khó khăn trong việc cải thiện hiệu quả hoạt động.

Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực chưa theo kịp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong giáo dục, kỹ năng lao động, chất lượng lao động của Việt Nam hiện vẫn chưa tương xứng với yêu cầu phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới điểm chất lượng nhân lực cao của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp thứ 73/133 quốc gia xếp hạng131. Điều này làm hạn chế khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ năm, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam giảm dần, thấp hơn nhiều nước trong khu vực (giai đoạn 2021-2025 ước đạt 4,8%, thấp hơn so bình quân 3 năm 2016-2018 (6,1%), không đạt mục tiêu đề ra (6,5%). Năng suất các nhân tố tổng hợp-yếu tố quan trọng trong chất lượng tăng trưởng cũng có xu hướng giảm (giai đoạn 2015-2019 đạt 2,77%, đứng đầu khu vực ASEAN, năm 2022 là -1,36%, năm 2023 là -2%), cho thấy hiệu quả của nền kinh tế có xu hướng giảm132.

Nguyên nhân của các hạn chế

Thứ nhất là do còn tồn tại nhiều điểm nghẽn về thể chế và hạn chế trong thực thi pháp luật. Tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám làm, né tránh trách nhiệm, đùn đẩy công việc lên cơ quan quản lý cấp trên hoặc sang bộ, ngành khác.

Thứ hai là việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu chậm. Đầu tư công tiến độ chậm, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, còn dàn trải, nhiều lãng phí, chưa phát huy vai trò dẫn dắt, kích hoạt hiệu quả các nguồn lực ngoài nhà nước.

Hoạt động cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém chậm; tình trạng “sở hữu chéo”, cho vay tín dụng đối với doanh nghiệp “nội bộ”, “sân sau” còn phức tạp và chưa có biện pháp giải quyết triệt để. Xác định các ngành hàng chiến lược, quốc gia giá trị cao chưa được quan tâm.

Thứ ba là kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, chưa tận dụng tốt các nguồn lực đầu tư nước ngoài. Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP (khoảng 46,4%), song tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Kinh tế tư nhân chủ yếu có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, đa số vẫn là kinh tế hộ kinh doanh (chiếm 94%) với trình độ công nghệ, quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh còn thấp; cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác133.

Thứ tư là ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ chưa đem lại kết quả rõ nét. Tư liệu sản xuất ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay. Đặc biệt, công cụ sản xuất còn lạc hậu, trình độ thấp, công cụ lao động thủ công chiếm phần lớn trong nông nghiệp, trong công nghiệp chiếm đến 60% lao động giản đơn. Máy móc thiết bị hiện có của Việt Nam so với thế giới lạc hậu nhiều, mức tiêu hao nhiên liệu cao gấp nhiều lần.

2.2. Giải pháp huy động và giải phóng sức sản xuất hiệu quả trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo cơ sở để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.

Để huy động và giải phóng hiệu quả sức sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc như nêu trên, cần triển khai các giải pháp quan trọng sau:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; tạo cơ chế thúc đẩy để kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế; hoàn thiện thể chế tài chính doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp nhằm phục vụ quá trình sắp xếp, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, thực hiện phân bổ các nguồn lực xã hội theo cơ chế thị trường và theo các định hướng về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước. Đẩy nhanh quá trình hoàn thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trường theo hướng hiện đại, nhất là thị trường chứng khoán, lao động, khoa học và công nghệ. Mặt khác, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Cải cách hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Môi trường kinh doanh ổn định, thân thiện sẽ giúp thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy các nguồn lực sản xuất phát triển.

Thứ hai, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ cao dựa trên nền tảng đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), cải tiến quy trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động và giá trị sản phẩm. Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số. Điều này sẽ giúp Việt Nam chuyển đổi từ tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ sang phát triển kinh tế tri thức.

Thứ ba, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam cần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề, đặc biệt chú trọng vào đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực số. Cần thiết lập các mạng lưới toàn cầu kết nối với công nghệ thế giới bằng cách nhập khẩu công nghệ cao, mời các chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy, tiến hành các hoạt động liên doanh đào tạo và nghiên cứu, phát triển nhân lực số. Chính phủ cần có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ tư, tiếp tục có nhiều chính sách khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân và khởi nghiệp, tạo điều kiện để khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ, đồng thời khuyến khích tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong cộng đồng. Đây là nguồn lực quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng và giải phóng sức sản xuất.

Thứ năm, phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ. Xây dựng và hiện đại hóa hệ thống giao thông, logistics, năng lượng và viễn thông nhằm hỗ trợ các hoạt động kinh tế. Nâng cấp hệ thống giao thông, kết nối các vùng miền, tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Phát triển hạ tầng năng lượng trong đó, đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho sản xuất và sinh hoạt. Phát triển hạ tầng thông tin với việc mở rộng và nâng cấp hạ tầng thông tin, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế số. Hạ tầng tốt sẽ giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.

3. Kết luận

Qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải phóng sức sản xuất. Tuy nhiên, quá trình này cũng còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế. Những khó khăn này phản ánh rằng, mặc dù nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện giải phóng một phần sức sản xuất, việc duy trì và phát triển sức sản xuất đòi hỏi phải nỗ lực cải cách mạnh mẽ hơn nữa về thể chế để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và thay đổi các mặt của quan hệ sản xuất để phù hợp với lực lượng sản mới hiện đại. Giải phóng sức sản xuất là chìa khóa để Việt Nam đạt được các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Điều này không chỉ giúp nâng cao vị thế quốc gia mà còn tạo cơ sở để Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ, xứng đáng với kỳ vọng "vươn mình của dân tộc".

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, https://dangcongsan.vn/thoi-su/noi-dung-chuyen-de-cua-tong-bi-thu-to-lam- ve-ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-682050.html

2. Báo nhân dân điện tử (2024), Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới và những định hướng chiến lược, https://nhandan.vn/co-so- dinh-vi-muc-tieu-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi-va-nhung-dinh- huong-chien-luoc-post842398.html

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019). Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới, Phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập I.

7. Nguyễn Hạnh (2024), Kinh tế thị trường: Dấu ấn của sự nỗ lực cải cách sau gần 40 năm, https://congthuong.vn/kinh-te-thi-truong-dau-an-cua-su-no-luc-cai-cach-sau-gan-40-nam-336448.html&link=autochanger

8.Nguyễn Văn Đạo (2024), Quan điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/quan-diem-kinh-te-thi-truong- dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu- trong-786370

9.Tổng cục Thống kê Việt Nam (2023), Báo cáo Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2021–2023.

Mai Trọng Tấn

NCS Kinh tế Chính trị - Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQGHCM

Tạp chí in số tháng 4/2025

Bạn đang đọc bài viết Kinh tế thị trường với phát triển sức sản xuất trong kỷ nguyên số ở  Việt Nam hiện nay tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

Thủ tướng: Cần xác định điểm nghẽn trong kinh tế tư nhân
Thủ tướng cho rằng cần xác định rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng, đóng góp cũng như những điểm nghẽn, nút thắt khiến kinh tế tư nhân chưa phát triển tương xứng với tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh; mối quan hệ giữa kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác.

x