Một số giải pháp thúc đẩy chuyển đổi kép cho doanh nghiệp Việt Nam
TCDN - Hiện vẫn có không ít các doanh nghiệp chưa nhận thấy sự cần thiết của quá trình chuyển đổi kép, dẫn đến chậm thay đổi cũng như chưa chú trọng thực hiện chuyển đổi một cách triệt để.
Tóm tắt:
Chuyển đổi kép, bao gồm chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, là xu hướng tất yếu giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Tuy nhiên vẫn có không ít các doanh nghiệp chưa nhận thấy sự cần thiết của quá trình chuyển đổi kép, dẫn đến chậm thay đổi cũng như chưa chú trọng thực hiện chuyển đổi một cách triệt để, vì vậy đã gặp những khó khăn và thách thức nhất định.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chuyển đổi kép trong doanh nghiệp là khái niệm kết hợp hai quá trình chuyển đổi cơ bản: Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Chuyển đổi số (Digital Transformation) là việc áp dụng công nghệ thông tin, như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, IoT, và điện toán đám mây, vào các quy trình sản xuất, quản lý và kinh doanh. Chuyển đổi xanh (Green Transformation) tập trung vào việc phát triển bền vững, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và áp dụng các biện pháp sản xuất thân thiện với môi trường. Kết hợp chuyển đổi số và xanh không chỉ giúp doanh nghiệp cải tiến sản phẩm, dịch vụ mà còn xây dựng hình ảnh thương hiệu hiện đại, thân thiện với môi trường, thu hút khách hàng và đối tác. Đây được xác định là con đường ngắn nhất, rẻ nhất để Việt Nam hướng tới một tương lai phát triển tốt đẹp, bền vững. Cũng vì vậy, Việt Nam đã xác định chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là lựa chọn chiến lược, là động lực chính của tăng trưởng kinh tế và hai chuyển đổi này cũng sẽ đảm bảo cho quốc gia phát triển nhanh và bền vững [1]. Bài viết đã tiến hành nghiên cứu về thực trạng chuyển đổi kép trong các doanh nghiệp Việt Nam và đưa ra các giải pháp thúc đẩy phát triển chuyển đổi kép cho doanh nghiệp trong thời gian tới.
THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI KÉP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, chuyển đổi số đã trở thành một thực tế bắt buộc các doanh nghiệp phải tham gia để có thể phát triển và tránh tụt hậu. Theo kết quả khảo sát “Thực trạng chuyển đổi số trong doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh COVID – 19” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện năm 2020, khảo sát trên 400 doanh nghiệp, cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu nhận thức và ứng dụng các công nghệ số vào các khâu như: Quản trị nội bộ, logistics, sản xuất, marketing, bán hàng và thanh toán. Khi đại dịch COVID-19 lan rộng, dẫn tới các doanh nghiệp buộc phải ứng dụng nhiều hơn các công nghệ số trong hoạt động của mình, nhất là trong quản trị nội bộ, thanh toán điện tử, marketing trực tuyến. Trong một thời gian ngắn, tỷ lệ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số tăng nhanh so với trước đây, cụ thể như trong việc quản lý nhân sự từ xa, học trực tuyến, hội nghị trực tuyến, phê duyệt nội bộ. Trong lĩnh vực quản trị nội bộ, điện toán đám mây là công cụ kỹ thuật được nhiều doanh nghiệp Việt Nam sử dụng nhất, với 60,6%, tăng 19,5% so với thời điểm trước đại dịch COVID-19. Tiếp theo là hệ thống hội nghị trực tuyến, hệ thống quản lý công việc và quy trình với xấp xỉ 30% số doanh nghiệp đã ứng dụng các công cụ này trước khi có đại dịch COVID-19 và xấp xỉ 19% số doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng các công cụ này từ khi có dịch bệnh [2].
Năm 2020, theo Vinasa thì tại Việt Nam có hơn 92% doanh nghiệp đã có sự quan tâm và đã có ứng dụng chuyển đổi số trong hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, chưa có đến 10% trong số họ nhận định rằng việc chuyển đổi số đã thành công và có thể mang lại giá trị trọng yếu cho doanh nghiệp. Đáng chú ý hơn, tại Việt Nam doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số với 97% nhưng thực trạng đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ chưa đủ điều kiện để chuyển đổi số, 92% doanh nghiệp trong số này chưa có hiểu biết về chuyển đổi số và 72% chưa biết bắt đầu từ đâu [3].
Năm 2021, đa phần các doanh nghiệp đều ứng dụng các phần mềm, giải pháp hoạt động quản lý đa kênh, bán hàng online, quản trị kênh phân phối, cụ thể như: Hàng trăm nghìn doanh nghiệp đang trực tiếp kinh doanh trên các sản phẩm thương mại điện tử như Lazada, Shopee…; 60% doanh nghiệp đang sử dụng phần mềm kế toán, trong đó 200.000 doanh nghiệp đang sử dụng phần mềm Misa; Trên 200.000 doanh nghiệp đang sử dụng các phần mềm hóa đơn điện tử; Khoảng 100.000 cửa hàng tại Viêt Nam đang sử dụng KiotViet cho hoạt động bán hàng và các kênh bán hàng và các phần mềm hỗ trợ khác cũng tương tự như vậy như Harvan, Sapo, Nhanh,…
Đồng thời, thực trạng hiện nay cho thấy sự phân hóa rõ nét giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa, nhỏ trong việc tiếp cận và triển khai những giải pháp về chuyển đổi kép. Đối với các doanh nghiệp lớn, nhất là các tập đoàn đa ngành, chuyển đổi số đã được chú trọng từ nhiều năm qua. Họ đầu tư mạnh vào hạ tầng công nghệ thông tin, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn (Big Data) và Internet vạn vật (IoT) vào quản lý sản xuất, logistics, marketing và dịch vụ khách hàng. Ngược lại, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) tại Việt Nam vẫn đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi kép. Một trong những rào cản lớn nhất là hạn chế về vốn đầu tư và nguồn lực chuyên môn. Nhiều doanh nghiệp chưa có đủ nguồn lực tài chính để đầu tư vào công nghệ số hiện đại, đồng thời còn thiếu hụt nhân lực có trình độ kỹ thuật số và kinh nghiệm trong việc áp dụng các giải pháp công nghệ. Điều này khiến cho việc chuyển đổi số, vốn là yếu tố tiên quyết trong việc hiện đại hóa doanh nghiệp, trở nên khó khăn và chậm tiến độ.
Bên cạnh đó, chuyển đổi xanh cũng là một thách thức lớn đối với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Việc áp dụng các quy trình sản xuất thân thiện với môi trường đòi hỏi không chỉ thay đổi về công nghệ mà còn cần sự chuyển đổi trong tư duy quản lý và văn hóa doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn tồn tại quan niệm cũ, cho rằng chi phí đầu tư ban đầu cho các giải pháp xanh quá cao so với lợi ích kinh tế ngắn hạn, dẫn đến việc chưa thực sự cam kết trong quá trình chuyển đổi này. Các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là những doanh nghiệp xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ, đã tích cực áp dụng mô hình sản xuất xanh, sử dụng năng lượng tái tạo và tuân thủ các tiêu chuẩn ESG (môi trường, xã hội, quản trị). Một số tập đoàn như PPJ Group đã đạt được nhiều chứng nhận quốc tế về sản xuất bền vững.
Năm 2024, Việt Nam đã tiếp tục củng cố cam kết về phát triển kinh tế xanh, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu chịu ảnh hưởng nặng nề từ biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường. Việt Nam tiếp tục gia tăng đầu tư vào năng lượng tái tạo, nhất là năng lượng mặt trời và gió. Trước đây, năng lượng tái tạo còn gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai do chi phí đầu tư cao, tuy nhiên những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đã giúp thúc đẩy thị trường này. Việt Nam đã đạt được bước tiến lớn trong việc phát triển các dự án năng lượng mặt trời và gió, đặc biệt là tại các tỉnh miền Trung và miền Nam, nơi có tiềm năng tài nguyên dồi dào [4].
Ngoài ra, ngành giao thông cũng đang chuyển mình với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện giao thông xanh. Khuyến khích phát triển mạnh mẽ xe điện, xe buýt điện và các phương tiện giao thông sử dụng năng lượng tái tạo. Các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh đã bắt đầu triển khai các tuyến xe buýt điện, mở rộng hệ thống giao thông công cộng, giảm thiểu ô nhiễm không khí và khuyến khích người dân sử dụng phương tiện thân thiện với môi trường.
Bên cạnh đó, lĩnh vực nông nghiệp cũng là một trong những ngành trọng điểm trong chuyển đổi kinh tế xanh. Nông nghiệp hữu cơ và sản xuất nông sản sạch đang ngày càng trở thành xu hướng tại Việt Nam, giúp bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đảm bảo phát triển bền vững. Chính phủ đã có những chính sách khuyến khích việc áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, giúp nâng cao giá trị và sản lượng của các sản phẩm nông sản Việt Nam.
Từ năm 2021, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã xác định rõ ràng bốn mục tiêu: giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; xanh hóa các ngành kinh tế; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc công bằng. Năm 2024, trên các phương tiện thông tin, lần đầu tiên khái niệm “bán tín chỉ các-bon” thành công được phổ cập tới công chúng. Theo đó, Việt Nam đã bắt đầu xây dựng được thị trường giao dịch tín chỉ các-bon, và thông qua thị trường này góp phần tăng cường giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo đó, các quy định về kiểm kê phát thải khí nhà kính phải thực hiện từ năm 2023, xây dựng kế hoạch và thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính tự thực hiện đến năm 2025 và bắt buộc thực hiện theo hạn ngạch được phân bổ từ năm 2026 trở đi. Từ đầu năm 2023, khoảng 1.920 cơ sở phát thải tại Việt Nam nằm trong danh sách chỉ định bắt đầu phải thực hiện báo cáo kiểm kê khí nhà kính định kỳ. Đến năm 2030, Việt Nam sẽ phải cắt giảm tối thiểu hơn 563 triệu tấn khí CO2, trong đó lĩnh vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phải cắt giảm nhiều nhất [5].
NHỮNG THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI KÉP
Thứ nhất, năng suất lao động thấp.
Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Việc cải thiện năng suất lao động đòi hỏi sự đầu tư bài bản từ cơ sở hạ tầng công nghệ, chương trình đào tạo chất lượng, cũng như thay đổi văn hóa doanh nghiệp để tạo ra môi trường làm việc sáng tạo và hiệu quả.
Thứ hai, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào FDI và xuất khẩu.
Việc phụ thuộc vào FDI và xuất khẩu đã mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển kinh tế, nhưng cũng tạo ra những rủi ro nhất định. Để hướng tới một nền kinh tế tự chủ hơn, cần có chiến lược đa dạng hóa nguồn thu, nâng cao năng lực nội địa và xây dựng một hệ sinh thái kinh doanh linh hoạt, đáp ứng kịp thời với những biến động của thị trường toàn cầu.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ.
Dù Việt Nam đã có những tiến bộ trong lĩnh vực chuyển đổi số, nhưng hạ tầng công nghệ thông tin, dữ liệu và kết nối giữa các doanh nghiệp, cơ quan vẫn chưa được đồng bộ và phát triển toàn diện. Hệ thống giao thông, logistics còn hạn chế ở nhiều nơi.
Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực.
Quá trình chuyển đổi, đặc biệt là hướng tới chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, đòi hỏi đội ngũ nhân viên có kỹ năng công nghệ, tư duy đổi mới và quản lý thay đổi. Tuy nhiên, nguồn nhân lực đáp ứng được những yêu cầu này còn hạn chế.
Thứ năm, ứng dụng công nghệ.
Ứng dụng công nghệ không chỉ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hoạt động mà còn mở ra những cơ hội mới trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Các doanh nghiệp cần đầu tư bài bản vào hạ tầng công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra môi trường làm việc sáng tạo, linh hoạt.
Thứ sáu, cải cách thể chế.
Cải cách thể chế là một nhiệm vụ cấp bách và quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Các thủ tục hành chính còn phức tạp, thiếu minh bạch. Cần tiếp tục cải cách để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn.
Thứ bảy, chênh lệch vùng miền.
Giảm chênh lệch vùng miền là một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, đặc biệt là sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Cần đầu tư hợp lý vào hạ tầng và giáo dục, cùng với việc xây dựng các chính sách phát triển đồng đều, tạo cơ hội cho mọi vùng miền cùng tiến bộ.
Thứ tám, ô nhiễm môi trường.
Phát triển công nghiệp nhanh dẫn đến ô nhiễm gia tăng. Ô nhiễm môi trường là một thách thức lớn đòi hỏi sự chung tay của cả Chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Cần có các giải pháp bền vững, bao gồm việc áp dụng công nghệ xanh và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Một là, hoàn thiện các quy định pháp lý về chuyển đổi số và môi trường.
Nhà nước cần xây dựng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ số thông qua các cơ chế khuyến khích về thuế, tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật, đồng thời cập nhật và hoàn thiện các quy định như Luật Giao dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin để theo kịp các xu hướng mới như trí tuệ nhân tạo, blockchain và dữ liệu lớn, đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ thông tin cá nhân. Tăng cường quy định pháp lý về môi trường thông qua việc áp dụng tiêu chuẩn ESG, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn với các chính sách hỗ trợ năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí carbon và xử phạt nghiêm minh các vi phạm môi trường.
Hai là, đầu vào giao thông thông minh và phát triển bền vững.
Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến như IoT, trí tuệ nhân tạo và hệ thống dữ liệu lớn vào hạ tầng giao thông cho phép theo dõi, phân tích và điều chỉnh lưu lượng giao thông một cách nhanh chóng và chính xác, từ đó giảm thiểu ùn tắc, giảm ô nhiễm không khí và cải thiện an toàn giao thông. Đồng thời, sự hỗ trợ từ các chính sách ưu đãi và các quy định pháp lý chặt chẽ về bảo vệ môi trường sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển đổi số trong lĩnh vực giao thông diễn ra một cách hiệu quả và bền vững.
Ba là, phấn đấu cho nền công nghiệp xanh.
Điều này đòi hỏi chuyển đổi từ mô hình sản xuất truyền thống sang các phương thức sản xuất tiên tiến, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường, đồng thời tích hợp mạnh mẽ các công nghệ số vào quy trình sản xuất và quản lý. Chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ tài chính và khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu phát triển các giải pháp công nghệ xanh cần được ban hành đồng bộ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp cận nguồn vốn và công nghệ mới.
Bốn là, bảo vệ môi trường.
Chính phủ cần ban hành các quy định nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường, tăng cường giám sát và xử phạt đối với các hành vi vi phạm, đồng thời khuyến khích đầu tư vào các công nghệ xử lý chất thải hiện đại và hệ thống tái chế nguồn tài nguyên. Các doanh nghiệp cũng phải cam kết áp dụng các quy trình sản xuất sạch, giảm thiểu phát thải và chuyển đổi sang các phương thức sản xuất xanh.
Năm là, chuyển đổi công bằng cho mọi người.
Trong bối cảnh công nghệ và kinh tế toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng, chuyển đổi công bằng cho mọi người trở thành kim chỉ nam đảm bảo rằng mọi thành phần trong xã hội đều được hưởng lợi từ quá trình phát triển. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng, từ việc đào tạo nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho đến việc cải thiện hệ thống an sinh xã hội, nhằm tạo cơ hội việc làm và giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo.
Sáu là, tài trợ dự án xanh.
Việc huy động nguồn vốn từ cả khu vực công và tư nhân, cùng với các chính sách ưu đãi tài chính, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án năng lượng tái tạo, giao thông sạch và công nghệ xử lý chất thải hiện đại. Qua đó, không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu mà còn tạo ra cơ hội việc làm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.
Bảy là, năng lượng nhà ở hiệu quả.
Các giải pháp như thiết kế kiến trúc tối ưu, sử dụng vật liệu cách nhiệt, hệ thống chiếu sáng LED tiết kiệm điện cùng với ứng dụng nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời và gió không chỉ giúp giảm tiêu thụ năng lượng mà còn giảm thiểu khí thải carbon. Đồng thời, các chính sách ưu đãi từ Nhà nước và chương trình tài trợ cho các dự án nhà ở xanh càng tạo động lực cho các nhà đầu tư và người dân áp dụng các công nghệ mới, hướng tới tiết kiệm năng lượng cho các thế hệ tương lai.
Tám là, dẫn dắt xu hướng chuyển đổi xanh.
Điều này đòi hỏi sự đồng lòng của Chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc áp dụng các chính sách ưu đãi, đầu tư vào công nghệ sạch và phát triển các giải pháp năng lượng tái tạo, từ đó tạo nên một hệ thống sản xuất và tiêu dùng thân thiện với môi trường, mở ra những cơ hội phát triển kinh tế mới, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Chín là, mô hình từ trang trại đến bàn ăn.
Xuất phát từ những cánh đồng sạch, nơi thực phẩm được chăm sóc tỉ mỉ và thu hoạch theo quy trình hữu cơ, các sản phẩm sau đó được vận chuyển ngắn hạn để giữ nguyên hương vị và giá trị dinh dưỡng, đảm bảo an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng. Phương thức này không chỉ giúp giảm thiểu tác động môi trường do vận chuyển mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương, tạo điều kiện cho nông dân được nhận giá trị xứng đáng từ công sức lao động của mình.
Mười là, thúc đẩy năng lượng sạch.
Việc đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió và thủy điện không chỉ giúp giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch mà còn góp phần bảo vệ môi trường, giảm khí thải nhà kính và đảm bảo an ninh năng lượng trong dài hạn. Các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, khuyến khích doanh nghiệp và người dân ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng cũng sẽ tạo điều kiện để năng lượng sạch trở nên phổ biến và dễ tiếp cận hơn.
KẾT LUẬN
Chuyển đổi kép là xu hướng tất yếu giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng với bối cảnh kinh tế toàn cầu. Để quá trình này đạt hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có thể tiếp cận và ứng dụng các giải pháp chuyển đổi kép. Khi chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đi đôi với nhau, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ phát triển mạnh mẽ trong nước mà còn có thể vươn ra thị trường quốc tế, góp phần xây dựng một nền kinh tế hiện đại, bền vững và trách nhiệm hơn./.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2022), Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022
2. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2020), Báo cáo khảo sát "Thực trạng chuyển đổi số trong doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19"
3. Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (2020), Báo cáo về mức độ chuyển đổi số của doanh nghiệp Việt Nam
4. Bích Ngọc (2025), Chuyển đổi kinh tế xanh tại Việt Nam năm 2024 và xu hướng năm 2025, truy cập từ https://kinhtemoitruong.vn/chuyen-doi-kinh-te-xanh-tai-viet-nam-nam-2024-va-xu-huong-nam-2025-96165.html
5. Sông Trà (2024), Chuyển dịch cơ chế tài chính cho Net-zero, truy cập từ https://nhandan.vn/chuyen-dich-co-che-tai-chinh-cho-net-zero-post820209.html
TS. Tô Văn Tuấn - Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
Tạp chí in số tháng 5/2025
email: [email protected], hotline: 086 508 6899