Ứng dụng thương mại điện tử trong phát triển du lịch

26/03/2021, 13:39

TCDN - Theo nghiên cứu, 80% khách du lịch Việt Nam là khách quốc tế, họ có nhu cầu tìm kiếm thông tin trên internet trước khi lựa chọn khách sạn. Một nửa số đó có nhu cầu đặt phòng trực tuyến, vì vậy việc sở hữu một website có tích hợp phần mềm đặt phòng trực tuyến là diều vô cùng cần thiết.

7-1

Tóm tắt

Sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin nói chung là các nhân tố thuận lợi cho việc ứng dụng máy tính trong các tổ chức; và thương mại điện tử (TMĐT) nói riêng là nhân tố chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh trên thế giới hiện nay hoạt động có hiệu quả hơn, dễ dàng và nhanh chóng hơn dưới sự tác động của môi trường cạnh tranh toàn cầu. Tất cả các hình thức kinh doanh nói chung và không riêng về ngành du lịch TMĐT đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong suốt quá trình hoạt động.

Tuy nhiên, hoạt động TMĐT áp dụng trong du lịch ở Việt Nam vẫn chưa đạt được như kỳ vọng.

Thương mại điện tử trong ngành du lịch

1. Cơ sở phát triển

Doanh thu từ hoạt động du lịch trực tuyến tại Đông Nam Á năm 2019 đạt khoảng 29,7 tỷ USD và ước tính sẽ đạt 78 tỷ đô vào năm 2025. Tại Việt Nam, trong các loại hình hàng hóa/dịch vụ, du lịch trực tuyến chiếm 6% tổng số lượng sản phẩm dịch vụ được giao dịch phổ biến trên các website, ứng dụng di động, tỷ lệ người mua sắm trực tuyến đã từng đặt chỗ khách sạn/tour du lịch chiếm đến 31%.

Một khảo sát với khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 2018 cho thấy: có tới 71% du khách tham khảo thông tin điểm đến trên internet; 64% đặt chỗ và mua dịch vụ trực tuyến trong chuyến đi đến Việt Nam. Với sự phát triển chung của thương mại điện tử và du lịch, các tỷ lệ này được dự báo sẽ tiếp tục tăng mạnh trong giai đoạn tới.

Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số nhận thức rất rõ tiềm năng to lớn thị trường du lịch trực tuyến cũng như tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ số trong ngành du lịch.

2. Các mô hình ứng dụng cơ bản

2.1. Mô hình website khách sạn

Theo nghiên cứu, 80% khách du lịch Việt Nam là khách quốc tế, họ có nhu cầu tìm kiếm thông tin trên internet trước khi lựa chọn khách sạn. Một nửa số đó có nhu cầu đặt phòng trực tuyến, vì vậy việc sở hữu một website có tích hợp phần mềm đặt phòng trực tuyến là diều vô cùng cần thiết.

Lúc này, website đóng vai trò như công cụ thu hút khách của khách sạn. Số lượng khách hàng đến ở tại khách sạn thay đổi liên tục, hơn nữa họ còn đăng kí sử dụng rất nhiều dịch vụ khác của khách sạn. Khách sạn không thể chỉ dùng phương pháp ghi chép thủ công, vì rất dễ gây nhầm lẫn, khó quản lí, tốn nhiều thời gian, nhân viên mà hiệu quả không cao. Chính vì lẽ đó, xây dựng website quản lý khách sạn là lựa chọn cần thiết và khôn ngoan.

2.2. Mô hình website các công ty du lịch

Đối với mô hình này công ty du lịch sẽ sở hữu những chức năng cơ bản sau:

- Cung cấp thông tin về công ty bạn.

- Cung cấp thông tin về dịch vụ mà công ty bạn có ( Tours, Visa, Hotel, Transport… ).

- Thông tin về các địa danh du lịch nổi tiếng, giới thiệu về đất nước, con người, khi hậu, thiên nhiên…

- Thông tin về các Tour du lịch, Khách sạn…

- Công cụ cho phép khách hàng đặt hàng qua mạng (Booking tours, booking hotel, booking ticket...).

- Các tiện ích cơ bản: tỷ giá ngoại tệ, thời tiết, bảng giá vé máy bay, tàu hỏa…

- Trang liên hệ và hỗ trợ trực tuyến.

- Nếu có thể, bạn nên đưa vào mục Khách hàng nhận xét ( Feedback/Testimonial). Đây là một điểm làm cho khách hàng quan tâm và tin tưởng hơn vào dịch vụ của bạn.

Với những tính năng trên thương mại điện tử được xem cầu nối hiệu quả gắn kết người dùng với công ty du lịch của bạn.

2.3. Mô hình website các hãng hàng không

Hiện tại các hãng hàng không lớn như Vietnam Airlines, Vietjet Air, Jetstar, Bambooairways… đều có trang web riêng để chuyển dịch từ các đại lý truyền thống sang đặt vé máy bay online, điều này giúp tiết kiệm một lượng lớn chi phí cho các đại lý cũng như nhân công, mặt khác người dùng cũng có thể trực tiếp săn vé máy bay cho mình dễ dàng hơn chỉ với một thiết bị có kết nối internet. Mặt khác, website với giúp họ tiếp cận được người dùng hiện nay, với thói quen tìm kiếm thông tin trên internet.

Thực trạng ứng dụng

Trên thế giới, CNTT đã được ứng dụng trong ngành Du lịch từ rất sớm. Những người làm trong ngành Du lịch đã rất quen với những nhà cung cấp dịch vụ du lịch trực tuyến như GenaRes (www.genares.com); Pegasus solution (www.pegs.com); Expedia (www.expedia.com); Asia (www.asia.com); Travelocity (www.travelocity.com)… Chỉ riêng Pegasus solution đã liên kết và cung cấp hệ thống đặt phòng trên 100.000 khách sạn và hệ thống dịch vụ trên thế giới. Đối với du khách, chỉ cần gõ cụm từ “booking” hoặc “travel” trong tìm kiếm “search” sẽ ra hàng loạt các trang web đặt phòng, đặt tour của rất nhiều công ty, vé máy bay và các dịch vụ du lịch khác… Chỉ cần vào địa chỉ một trang như Asia.com, du khách đã bị choáng ngợp với rất nhiều thông tin các khách sạn, hãng du lịch…

Trước đây, các site chỉ tập trung vào một lĩnh vực nào đó như giá vé máy bay hay khách sạn, nhưng bây giờ họ cung cấp toàn bộ các sản phẩm du lịch: từ đặt tour đến phòng khách sạn, đặt ô tô rồi đến những gói du lịch trọn vẹn. Sự cạnh tranh trên thị trường du lịch trực tuyến diễn ra rất gay gắt, mỗi hãng lữ hành đều đưa ra các tính năng mới trên website của mình để nâng cao tính cạnh tranh. Nếu như trước đây trang Asia.com chỉ đặt phòng khách sạn là chủ yếu thì nay đã mở rộng cả đặt phòng, đặt tour hay các dịch vụ liên quan khác. Đại lý du lịch trực tuyến “Orbitz” có tính năng “Deal Detector”, cho phép khách du lịch có thể thay đổi loại vé họ muốn mua (tức là nếu giá vé vào thời điểm khách đặt trước cao hơn so với giá vé bán vào ngày mà họ đã chọn để đi, thì tính năng mới sẽ gửi một email đến họ và họ có thể thay đổi nếu vé bán ngày hôm đó vẫn còn). Các hãng hàng không khắp thế giới cũng đang tăng cường ứng dụng TMĐT như là một công cụ hiệu quả để điều chỉnh chi phí. Chẳng hạn, American Airline đã đưa ra hệ thống đặt chỗ trên mạng SABRE vào năm 1978 và được phát triển thành hệ thống dịch vụ khách hàng "EASY SABRE" giữa những năm 80, cho đến năm 1990 thì trở thành dịch vụ mở rộng America Online.

Theo số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (2015), doanh thu bán lẻ trực tuyến quý 3/2015 của quốc gia này đạt 251,9 tỷ USD, chiếm 7,4% tổng doanh thu bán lẻ của cả nước. Riêng tại Trung Quốc - đất nước có thị trường bán lẻ trực tuyến tăng mạnh - doanh thu bán lẻ trực tuyến nước này tính đến tháng 9/2015 ước đạt 672,01 tỷ USD, tăng 42,1% so với cùng kỳ 2014 và chiếm khoảng 15,9% tổng doanh thu bán lẻ của Trung Quốc. Trong đó, các sản phẩm dịch vụ như du lịch, thời trang, hàng may mặc được mua sắm trực tuyến nhiều nhất (Cục TMĐT & CNTT, 2015). Với hơn 1,4 tỷ người dùng Internet hiện nay, ứng dụng CNTT là nhân tố tạo sức cạnh tranh cho các nước đang phát triển có tiềm năng du lịch cạnh tranh bình đẳng với các cường quốc du lịch (Trần Võ Đại Nguyên, 2008).

Tại Việt Nam, theo Báo cáo Thương mại điện tử của Cục Thương mại Điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thương (2015), doanh số TMĐT (B2C) đạt khoảng 4,07 tỷ USD, tăng 37% so với năm trước đó, chiếm khoảng 2,8% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước. Nhóm sản phẩm dịch vụ lưu trú và du lịch cũng là nhóm sản phẩm được giao dịch nhiều nhất trên các sàn thương mại điện tử (chiếm 9%).

Theo khảo sát của Tổng cục Du lịch (2012) với 52 doanh nghiệp du lịch thì 100% doanh nghiệp có máy vi tính nối mạng. Tỷ lệ dùng Internet để thanh toán trên mạng đạt 27% với 49/52 doanh nghiệp đã có website. Con số này chứng tỏ các doanh nghiệp đã có ý thức về vai trò của CNTT trong quảng bá sản phẩm du lịch. Thực tế, việc ứng dụng TMĐT trong ngành Du lịch đã được chú trọng từ lâu. Tổng cục Du lịch đã có website giới thiệu về Việt Nam cùng các thông tin cần thiết về các cảnh đẹp và các thủ tục cho khách du lịch tại các địa chỉ: www.vietnamtourism.gov.vn; www.dulichvn.org.vn; www.vietnamtourism-info.com; www.vietnam-tourism.com... Phần lớn các công ty du lịch, khách sạn đã có những trang web đặt phòng, đặt tour như www.saigontourist.com; www.vietravelvn.com; www.huonggiangtourist.com… Tại các cơ sở lưu trú ở Việt Nam, tỷ lệ đặt phòng qua internet chiếm khoảng 17% từ năm 2013 đến nay (Grant Thornton Việt Nam, 2015).

Có nhiều mô hình TMĐT, nhưng trong du lịch người ta thường áp dụng các mô hình như B2B (kết nối doanh nghiệp), B2C (kết nối doanh nghiệp đến khách hàng), C2B (kết nối khách hàng với doanh nghiệp). Các khách sạn hay công ty du lịch có thể xây dựng các website riêng lẻ để khách đăng ký và có thể đăng ký với một công ty cung cấp hệ thống đặt phòng toàn cầu. Ở Việt Nam, đặc biệt là các khách sạn thường đăng ký liên kết với hệ thống đặt phòng qua mạng toàn cầu (Global Distribution System - GDS) và công cụ đặt chỗ trực tuyến (Web Booking Engine - WBE). Người dùng GDS và WBE sẽ dễ dàng đặt phòng khách sạn từ khắp thế giới. GDS kết nối khách sạn đến 4 kênh phân phối toàn cầu là Sarbe, Galileo, Worldspan và Amadeus. Mỗi kênh có thế mạnh ở từng châu lục khác nhau. Sử dụng GDS, thông tin khách sạn tự động được kết nối đến hơn 1.000 websites du lịch, bao gồm 100 websites du lịch nổi tiếng nhất thế giới (www.expedia.com, www.travelocity.com, www.zuji.com...) và hơn 600.000 đại lý du lịch trên toàn thế giới. Đồng thời, khách sạn cũng thực hành thương mại điện tử nhận đặt phòng của khách du lịch khắp toàn cầu.

Các công ty cung cấp dịch vụ đặt phòng toàn cầu đã phát triển mạnh mẽ kết nối các khách sạn, khu du lịch, các công ty du lịch, các hãng hàng không và các dịch vụ du lịch khác. Điều đó đã góp phần giúp các doanh nghiệp dễ dàng quảng bá và bán sản phẩm của mình trên toàn cầu cũng như thuận tiện cho khách hàng trong việc lựa chọn dịch vụ. Chỉ tính riêng đến năm 2009, Việt Nam đã có hơn 70 khách sạn, resort từ 3 - 5 sao lựa chọn GDS và 72% trong số đó sử dụng WBE do công ty GenaRes (www.genares.com) cung cấp và con số này tăng mạnh qua các năm (Tổng cục Du lịch, 2012).

Hiện ngành Du lịch Việt Nam đang từng bước tiếp cận và ứng dụng rộng rãi CNTT nói chung và TMĐT nói riêng trong phát triển du lịch, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như:

- Mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin chưa cao.

Điều này thể hiện thông qua chỉ số xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, trong giai đoạn từ năm 2015 - 2018 chỉ xếp ở vị trí trung bình khá trong tổng số 19 bộ, ngành. Đặc biệt, các chỉ số về hạ tầng kỹ thuật và chỉ số ứng dụng CNTT nhiều năm xếp ở vị trí trung bình yếu.

Đối với cấp địa phương, ngoại trừ 5 địa phương có du lịch phát triển - gồm Hà Nội, Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Thừa Thiên - Huế - đứng đầu bảng xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông, còn nhiều địa phương có du lịch phát triển nhưng chỉ số xếp hạng lại rất thấp, như: Hải Phòng, Ninh Bình, Quảng Bình, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Lào Cai,…

- Trình độ khoa học công nghệ còn hạn chế.

So với các quốc gia trên thế giới, trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam còn thấp. Do đó, việc nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm công nghệ ứng dụng cho du lịch còn nhiều hạn chế.

- Tỷ lệ ứng dụng công nghệ thông tin của doanh nghiệp du lịch còn thấp.

Theo khảo sát của Hiệp hội Du lịch Việt Nam, hiện nay, các hệ thống khách sạn cao cấp, thương hiệu quốc tế và các hãng hàng không, doanh nghiệp lữ hành lớn như Saigontourist, Vietravel, Vietnamtourism… đều tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh du lịch với khối lượng sản phẩm phong phú, có thông tin cụ thể về thời điểm, giá cả, các dịch vụ.

Với các doanh nghiệp du lịch khác hay các điểm tham quan, các đơn vị vận chuyển, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động kinh doanh du lịch chiếm tỷ lệ thấp. Nguyên nhân chính do doanh nghiệp du lịch Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn ít, kinh doanh nhỏ, lẻ nên khả năng tài chính chi trả cho đầu tư ứng dụng công nghệ không cao.

- Thị trường du lịch trực tuyến chưa phát triển.

Các công ty lữ hành online thương hiệu toàn cầu - như Agoda.com, Booking.com, Traveloka.com, Expedia.com - đang độc chiếm thị trường Việt Nam với khoảng 80% thị phần. Trong khi đó, chỉ có khoảng 10 doanh nghiệp Việt Nam có kinh doanh du lịch trực tuyến, như Ivivu.com, chudu24.com, mytour.vn, tripi.vn, vntrip.vn… Tuy nhiên, các công ty này cũng chỉ phục vụ thị trường khách nội địa với số lượng giao dịch còn thấp.

Thời gian qua, có thể thấy ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động du lịch đã mang lại những kết quả đáng kể cho sự tăng trưởng ấn tượng của ngành. Mặc dù vậy, việc ứng dụng CNTT trong phát triển du lịch mới chỉ dừng ở mức cơ bản, chưa khai thác được tối ưu các lợi thế của công nghệ trong cạnh tranh, thu hút khách hàng cũng như trong quản lý, điều hành kinh doanh du lịch. Vì vậy, các cơ quan quản lý, các địa phương đến các đơn vị kinh doanh cần tăng cường hiệu quả hơn nữa việc ứng dụng CNTT để quảng bá du lịch Việt Nam và đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. TS. Lê Quang Đăng (2019), Cách mạng công nghiệp 4.0 và tiến trình phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam, Viện Nghiên cứu và Phát triển du lịch - Tổng cục du lịch.

2. Chính phủ (2018), Quyết định 1671/QĐ - TTg 2018 phê duyệt “Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm 2025”.

3. World Travel & Tourism - WTTC (2010), Economic Impact Research, Published by WTTC, London E1W 3HA, UK.

4. http://www.pegs.com

NCS Nguyễn Tấn Trung - Đại học Văn Hiến

Bạn đang đọc bài viết Ứng dụng thương mại điện tử trong phát triển du lịch tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Bình luận

Tin liên quan

Hiệu quả sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ tại doanh nghiệp
Trong thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) như Luật KH&CN số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013; Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN.
Giải pháp phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong cách mạng công nghiệp 4.0
Thời gian qua, kinh tế tập thể (KTTT), mà trọng tâm là hợp tác xã (HTX) đã và đang phát triển rộng khắp trên các vùng miền, địa phương, cả nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, để khu vực KTTT, HTX ngày càng phát triển trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.