Đánh giá chất lượng liên kết giữa thương lái và nông hộ trồng thanh long

25/09/2025, 10:05
chia sẻ bài viết

TCDN - Nghiên cứu sử dụng 150 mẫu quan sát và mô hình cấu trúc tuyến tính PLS-SEM (SmartPLS) để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng chất lượng liên kết. Kết quả cho thấy có năm nhân tố: sự cam kết (β=0,314), sự cân bằng quyền lực (β=0,286), sự tin tưởng (β=0,278), sự hài lòng (β=0,238) và sự chia sẻ thông tin (β=0,189).

Tóm tắt:

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá chất lượng liên kết giữa thương lái và nông hộ trồng thanh long tại huyện Hàm Thuận Nam tỉnh Bình Thuận. Nghiên cứu sử dụng 150 mẫu quan sát và mô hình cấu trúc tuyến tính PLS-SEM (SmartPLS) để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng. Kết quả cho thấy có năm nhân tố có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng liên kết: sự cam kết (β=0,314), sự cân bằng quyền lực (β=0,286), sự tin tưởng (β=0,278), sự hài lòng (β=0,238) và sự chia sẻ thông tin (β=0,189), trong đó cam kết và cân bằng quyền lực là hai yếu tố quan trọng nhất. Mối quan hệ gián tiếp cũng được xác định: cam kết thúc đẩy tin tưởng, chia sẻ thông tin gia tăng tin tưởng và hài lòng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hướng tới nâng cao tính ổn định, công bằng và bền vững của chuỗi giá trị thanh long.

1. Giới thiệu

Thanh long là một trong những loại trái cây xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu trái cây của cả nước, đạt trên 1,1 triệu tấn vào năm 2024. Bình Thuận hiện là địa phương có diện tích trồng thanh long lớn nhất cả nước, với diện tích khoảng 33.500 ha, chiếm trên 52% tổng diện tích cả nước. Riêng huyện Hàm Thuận Nam được mệnh danh là “thủ phủ thanh long” của tỉnh, diện tích trồng đạt 12.600 ha (năm 2024), sản lượng đạt khoảng 400.000 tấn/năm, chiếm hơn 35% sản lượng toàn tỉnh. Thanh long tại Hàm Thuận Nam được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Trung Quốc (chiếm hơn 85%), còn lại tiêu thụ nội địa và xuất sang các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chuỗi giá trị thanh long tại Hàm Thuận Nam còn gặp nhiều thách thức, đặc biệt ở khâu liên kết giữa nông hộ và thương lái. Khoảng 95% thanh long được tiêu thụ qua thương lái thu mua tại vườn, trong khi phần lớn nông dân sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chưa theo tiêu chuẩn chất lượng đồng nhất, dẫn đến tình trạng lệ thuộc vào thương lái, giá cả bấp bênh và rủi ro thị trường cao. Do đó, tác nghiên cứu “Đánh giá chất lượng liên kết giữa thương lái và nông hộ trồng thanh long tại huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận” được thực hiện.

2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu

2.1. Cơ sở lý thuyết

Theo Eaton và Sheppherd (2001), chất lượng liên kết kinh tế được xem như là chất lượng mối quan hệ ở góc độ kinh tế có trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ. Trong nông nghiệp, liên kết giữa nông hộ với thương lái là một liên kết đơn giản nhưng lại phức tạp hơn là liên kết giữa nông hộ với doanh nghiệp [1].

Theo Carmen Lages và cộng sự (2005), chất lượng liên kết (RELQUAL) là thước đo đánh giá mối quan hệ liên kết dựa trên các yếu tố: chia sẻ thông tin, chất lượng giao tiếp, định hướng mối quan hệ dài hạn, sự hài lòng trong liên kết. Chất lượng liên kết tốt giúp gia tăng chia sẻ thông tin, sự hài lòng, và định hướng phát triển mối quan hệ bền vững [2].

Theo Trương Quang Dũng và cộng sự (2014), chất lượng liên kết phản ánh mức độ hiệu quả của mối quan hệ giữa các bên thông qua các yếu tố: sự cam kết, sự tin tưởng, sự hài lòng, sự cân bằng quyền lực và khả năng giải quyết mâu thuẫn. Trong đó, sự cân bằng quyền lực là yếu tố nền tảng chi phối các yếu tố khác trong mối liên kết, giúp giảm tình trạng ép giá, tạo công bằng giữa các bên [3].

2.2. Tổng quan nghiên cứu

Hồ Quế Hậu (2015) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng và sự bền vững trong liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp với nông dân. Kết quả nghiên cứu cho thấy giữa chất lượng và bền vững của liên kết có mối quan hệ thuận chiều. Bốn yếu tố của chất lượng có ảnh hưởng tích cực đến mức độ bền vững của liên kết doanh nghiệp - nông dân đó là: Độ an toàn và lợi ích của nông dân, Độ tin cậy doanh nghiệp của nông dân, Mức hiểu biết và ứng xử với nông dân của doanh nghiệp và cuối cùng là Phương tiện phục vụ liên kết [4].

Trần Hoài Nam và cộng sự (2022) đã tiến hành nghiên cứu đánh giá chất lượng hoạt động liên kết giữa doanh nghiệp và nông hộ chăn nuôi bò sữa tại huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố sự cam kết, sự chia sẻ thông tin, sự hợp tác phối hợp, sự tin tưởng và sự hài lòng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động liên kết [5].

Christopher B. Barrett và cộng sự (2012) đã thực hiện nghiên cứu hộ nông dân tham gia vào hợp đồng liên kết: Bằng chứng so sánh của năm quốc gia. Kết quả nghiên cho thấy rằng liên kết sản xuất theo hợp đồng có tiềm năng mang lại lợi ích cho các hộ nông dân nhỏ lẻ, nhưng sự tham gia và lợi ích thực tế bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như đặc điểm địa lý, lựa chọn đối tác, điều khoản hợp đồng, mức độ tuân thủ và tính năng động của thị trường [6].

Sumangala Bandara và cộng sự (2017) đã thực hiện nghiên cứu quyền lực và chất lượng liên kết trong chuỗi cung ứng: Trường hợp của ngành công nghiệp rau quả hữu cơ ở Úc. Kết quả chỉ ra rằng quyền lực không ép buộc giúp tăng hiệu quả liên kết, trong khi quyền lực ép buộc làm giảm hiệu quả liên kết, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cân bằng quyền lực trong duy trì liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp [7].

3. Mô hình nghiên cứu, các giả thiết và các biến trong mô hình

H

z7047770910271_b38fab32189f1016a2b2af490dd91de0
z7047771079380_046106e3d9d86f8704ad912c95c55f10

4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp, dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng, kết hợp thống kê mô tả và mô hình phương trình cấu trúc PLS-SEM. Theo Hair và công sự (2009) về quy tắc xác định cỡ mẫu, đối với bài toán phân tích nhân tố, cỡ mẫu được xác định ít nhất bằng 05 lần số biến quan sát trong mô hình. Mô hình của nhóm nghiên cứu có 30 biến quan sát được đưa vào phân tích nhân tố, do đó số lượng quan sát tối thiểu cần thiết cho nhóm nghiên cứu là 5 * 30 = 150 quan sát. Do vậy, mẫu quan sát của nghiên cứu này là 150 quan sát. Số liệu được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi. Các số liệu đã thu thập được bằng cách khảo sát sẽ được tổng hợp, tính toán và phân tích bằng phần mềm Excel và SmartPLS 4.0. Từ đó sẽ cho thấy mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến chất lượng liên kết giữa thương lái và nông hộ trồng thanh long tại huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận [8].

5. Kết quả nghiên cứu

5.1. Kiểm định mô hình đo lường

a) Kiểm định tính đơn hướng

Từ kết quả của đầu tiên của kết xuất SmartPLS, loại biến BP4 (0,051 < 0,4), loại bỏ biến CS3 (0,116 < 0,4) và loại bỏ S2(0,136<0,4) khi mà tất cả những biến này đều nhỏ hơn 0,4.  

z7047770927510_ed7c7261b07b1746b689240a03ab24aa

b) Kiểm định độ tin cậy

z7047771079366_8783cb68833bbe7224ce69bc5987dbd5

Giá trị căn bậc hai của AVE (các giá trị trên đường chéo) đều lớn hơn hệ số tương quan với các biến tiềm ẩn khác. Điều này chứng tỏ các thang đo trong nghiên cứu đạt giá trị phân biệt tốt, đảm bảo sự khác biệt rõ ràng giữa các khái niệm lý thuyết được sử dụng trong mô hình.

5.2. Kiểm định mô hình cấu trúc

z7047770910350_771677e156cd3a1eaf6ec8d86babacde

Kết quả VIF từ phần mềm SmartPLS chỉ ra rằng, sự liên kết giữa các nhân tố không vi phạm giả định về đa cộng tuyến vì tất cả các hệ số đều nằm trong khoảng chấp nhận (VIF = 1,388– 2,952 <5), nên mô hình không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.

z7047770946326_e92b3565015b79ce09808958893f9e84

Hình 2 cho thấy, sự biến thiên của nhân tố chất lượng liên kết (LQ) được giải thích bởi các yếu tố Sự cam kết (C), Sự tin tưởng (T), Sự chia sẻ thông tin (CS), Sự hợp tác phối hợp (CC) , Sự hài lòng (S) , Sự cân bằng quyền lực (BP) là 70,8% với mức ý nghĩa thống kê 5%, còn 29,2% còn lại chưa giải thích đươc là do chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố khác chưa được đưa vào mô hình. Tiếp đến sự biến thiên của nhân tố hợp tác phối hợp (CC) được giải thích bởi các yếu tố CS, T, C, S là 57%; còn lại thì yếu tố cam kết (C) và sự chia sẻ thông tin (CS) giải thích được 49,2% sự biến thiên của Tin tưởng (T).

5.3. Kiểm định giả thiết

Trong nghiên cứu này sử dụng kỹ thuật bootstrapping với cỡ mẫu lặp lại là 5.000 quan sát (n = 5.000) từ cỡ mẫu ban đầu là 150 quan sát để đảm bảo yêu cầu kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính sẽ cho ra các sai số chuẩn và giá trị t-statistic.

z7047771004325_1d5409b00a4fb5517a4122e7e9bb3644

Kết quả Bảng 7 cho thấy, trong 12 giả thiết thì có 11 giả thiết đúng với dấu kỳ vọng ban đầu là H2a, H2b, H2c, H3a, H3b, H3c, H4a, H4b, H5a, H5b, H6. Để các yếu tố tác động có ý nghĩa thì hệ số P _values phải nhỏ hơn 0,05. Do đó kết quả thể hiện có 6 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng liên kết giữa thương lái và nông hộ, trong đó có 5 yếu tố có ý nghĩa thống kê là: Sự cam kết (C); Sự tin tưởng (T); Sự chia sẻ thông tin (CS); Sự hài lòng (S) và Sự cân bằng quyền lực (BP); còn yếu tố hợp tác phối hợp (CC) không có ý nghĩa thống ở mức 5% (P_value = 0,457 > 5%). Tác động tổng của các nhân tố đến sự hợp tác phối hợp của nông hộ với thương lái trong mối liên kết là cam kết (0,534) và tin tưởng (0,536), cùng với đó cam kết (0,576) và chia sẻ thông tin (0,198) cũng có tác động đến tin tưởng trong mối liên kết này.

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các yếu tố tác động đến LQ là sự cân bằng quyền lực (0,286), sự cam kết (0,314), sự chia sẻ thông tin (0,189), sự hài lòng (0,238), sự tin tưởng (0,278). Như vậy, chất lượng hoạt động liên kết giữa thương lái và nông hộ sẽ được cải thiện khi các tiêu chí sự cân bằng quyền lực, sự cam kết, sự tin tưởng, sự chia sẻ thông tin và sự hài lòng được quan tâm nhiều hơn. Ngoài ra, nhân tố sự cam kết có ý nghĩa thống kê đến sự tin tưởng và sự hợp tác phối hợp; chia sẻ thông tin cũng có ý nghĩa thống kê đến tin tưởng và tin tưởng cũng có ý nghĩa thống kê đến sự hợp tác phối hợp.

6. Kết luận

Nghiên cứu “Đánh giá chất lượng liên kết giữa thương lái và nông hộ trồng thanh long tại huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận” tiến hành khảo sát 150 nông hộ và sử dụng phần mềm SmartPLS 4.0 để phân tích số liệu. Dựa trên kết quả khảo sát cho thấy nông hộ tại đây chủ yếu tiêu thụ thanh long thông qua thương lái bằng hình thức giao dịch không chính thức (bằng miệng), mối liên kết giữa hai bên mang tính tự phát, thiếu sự ổn định và dễ bị tác động bởi biến động thị trường. Thực trạng này dẫn đến tình trạng chuỗi cung ứng bất ổn – giá cả bấp bênh, nông hộ phụ thuộc vào thương lái.

Mô hình nghiên cứu gồm 6 biến độc lập và 1 biến phụ thuộc. Kết quả phân tích mô hình PLS-SEM với 150 mẫu khảo sát nông hộ cho thấy các yếu tố sự cân bằng quyền lực (0,286), Sự cam kết (0,314), Sự tin tưởng (0,278), Sự hài lòng (0,238) và Sự chia sẻ thông tin (0,189) có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng liên kết giữa thương lái và nông hộ. Trong đó, cam kết (0,314) và cân bằng quyền lực (0,286) là hai yếu tố có tác động mạnh nhất, phản ánh tầm quan trọng của việc đảm bảo tính ổn định, công bằng và giữ chữ tín trong quá trình liên kết.

Bên cạnh đó, sự tin tưởng giữa các bên cũng góp phần duy trì mối quan hệ liên kết bền vững, trong khi chia sẻ thông tin giúp nông hộ chủ động hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Mặc dù hợp tác phối hợp chưa cho thấy tác động trực tiếp đáng kể đến chất lượng liên kết, song vẫn có tác động gián tiếp thông qua cam kết và sự tin tưởng.

Tài liệu tham khảo

[1]. Eaton, C., & Shepherd, A., 2001. Contract farming: partnerships for growth (No. 145). Food & Agriculture Org.

[2]. Lages, C.; Lages, C.R. &, Lages, L.F., 2005. The RELQUAL scale: a measure of relationship quality in export market ventures. Journal of Business Research, 58, 1040–1048.

[3]. Dũng, T. Q., Lợi, T. H., Thắng, T. N., & Hiếu, N. M, 2014. Mối liên kết giữa hộ trồng cam và người thu mua ở nghệ an. Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development, 91(3).

[4]. Hậu, H. Q., 2015. Mối quan hệ giữa chất lượng và sự bền vững trong liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp với nông dân. Tạp chí Kinh tế phát triển, số, 222, 71-78.

[5]. Nam, T. H., Thư, Đ. T. A., Khanh, Đ. T. P., & Vũ, L., 2022. Đánh giá chất lượng hoạt động liên kết giữa doanh nghiệp và nông hộ chăn nuôi bò sữa tại huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh-Kinh tế và quản trị kinh doanh, 17(5), 19-31.

[6]. Barrett, C. B., Bachke, M. E., Bellemare, M. F., Michelson, H. C., Narayanan, S., & Walker, T. F., 2012. Smallholder participation in contract farming: comparative evidence from five countries. World development, 40(4), 715-730.

[7]. Bandara, S., Leckie, C., Lobo, A., & Hewege, C., 2017. Power and relationship quality in supply chains: The case of the Australian organic fruit and vegetable industry. Asia Pacific Journal of Marketing and Logistics, 29(3), 501-518.

[8]. Hair, J. F., Hult, G. T. M., Ringle, C., and Sarstedt, M., 2009. A primer on partial least square structural equation modeling (PLS-SEM). California: Sage Publications

Nguyễn Lê Xuân Trường, Phạm Thị Nhiên

Trường ĐH Nông Lâm TP HCM

Tạp chí in số tháng 9/2025

Bạn đang đọc bài viết Đánh giá chất lượng liên kết giữa thương lái và nông hộ trồng thanh long tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

x