Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2021 trong bối cảnh Covid-19

26/05/2021, 14:24

TCDN - Tại Việt Nam, đại dịch Covid-19 bắt đầu ảnh hưởng từ tháng 1/2020 khiến tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 sụt giảm nghiêm trọng, mặc dù nếu so sánh với các nước trên thế giới có mức tăng trưởng âm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá cao.

2-1

Tóm tắt

Trong năm 2020, mặc dù Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nhưng nền kinh tế vẫn đạt được mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Để giữ vững được kết quả khả quan như trên và tạo đà phát triển khi bước sang năm 2021, Việt Nam sẽ phải vượt qua được những thách thức khó khăn cả trong nước và tác động của kinh tế thế giới khi dịch Covid-19 vẫn diến biến phức tạp. Những khó khăn thách thức kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong hoàn cảnh hiện nay như thị trường tiêu thụ trong nước và thế giới giảm, nhu cầu vay vốn thấp, khó đưa ra các chiến lược phát triển cụ thể khi diễn biến dịch bệnh vẫn còn khó lường...

Tuy nhiên với những kinh nghiệm và bài học rút ra trong năm 2020 sẽ là tiền đề để kinh tế Việt Nam vượt qua những khó khăn, phục hồi và phát triển trong năm 2021.

1. Đặt vấn đề

Việt Nam và thế giới đang phải đối phó với cuộc khủng hoảng Covid-19 - cuộc khủng hoảng về y tế nhưng lại có ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế. Tại Việt Nam, đại dịch Covid-19 bắt đầu ảnh hưởng từ tháng 1/2020 khiến tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 sụt giảm nghiêm trọng, mặc dù nếu so sánh với các nước trên thế giới có mức tăng trưởng âm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá cao. Những nỗ lực mở rộng tài khóa và tiền tệ của Chính phủ đã phần nào giúp nền kinh tế chống đỡ và vượt qua khó khăn trong đại dịch. Sang năm 2021, khi tình hình dịch bệnh trên thế giới bắt đầu có dấu hiệu suy giảm cùng việc cung ứng vắc- xin trên diện rộng, tăng khả năng kiểm soát được dịch bệnh thì cơ hội để phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam nói riêng và kinh tế thế giới nói chung là tương đối khả quan. Trong phạm vi bài viết, tác giả cố gắng đưa ra cái nhìn toàn diện về kinh tế Việt Nam trong năm 2020, chỉ ra những thách thức, khó khăn mà kinh tế Việt Nam phải đối diện khi bước sang năm 2021 cũng như những cơ hội để thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Kinh tế Việt Nam năm 2020 trong cuộc khủng hoảng Covid-19

Trong năm 2020, đại dịch Covid-19 đã gây ảnh hưởng nặng nề cho nhiều nền kinh tế trên thế giới như Mỹ giảm 4,3% và Liên minh Châu Âu giảm 8,3% (theo IMF 2020), tuy nhiên Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91% , được đánh giá là một trong các nước có mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Điều này có được là nhờ sự thống nhất và nhất quán trong chính sách của Chính phủ, nỗ lực của doanh nghiệp và người dân cùng vượt qua những tác động của đại dịch. Nhìn lại nền kinh tế trong năm 2020, Việt Nam đã đạt được mục tiêu kép vừa phát triển kinh tế, vừa kiểm soát được dịch bệnh, thể hiện ở các chỉ tiêu sau:

Thứ nhất, năm 2020 Việt Nam giữ mức tăng trưởng kinh tế cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù so với mức tăng trưởng 7,02% năm 2019, mức tăng trưởng năm 2020 của Việt Nam vẫn thấp hơn 4,11% nhưng trong bối cảnh nền kinh tế chịu ảnh hưởng rất lớn của đại dịch Covid-19 thì đây được xem là kết quả khá tốt và thể hiện được sự đúng đắn trong các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam nhằm ứng phó với các tác động tiêu cực của đại dịch.

Thứ hai, lạm phát tiếp tục được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng ở ngưỡng an toàn và thị trường tiền tệ ổn định, lãi suất ở mức thấp. Để đối phó với ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, chính sách tiền tệ năm 2020 đã được điều chỉnh liên tục theo hướng nới lỏng nhằm: (i) Ổn định giá trị đồng nội tệ; (ii) Duy trì mặt bằng lãi suất ưu đãi để thúc đẩy các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp; (iii) Kiểm soát lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2020 tăng 3,23% so với năm trước, đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ CPI bình quân năm 2020 dưới 4% của Quốc Hội đề ra trong bối cảnh một năm với nhiều biến động khó lường.

Đây là cơ hội để Chính phủ có thể thực hiện tốt các biện pháp điều hành, thúc đẩy, kích thích tăng trưởng kinh tế trong năm 2021. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều chỉnh tăng mức tăng trưởng tín dụng của nhiều tổ chức có khả năng mở rộng hoạt động tín dụng lành mạnh để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối năm 2020, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 8,41% so với cuối năm 2019. Điều đó phản ánh nhu cầu về vốn của nền kinh tế có bước phục hồi.

Thứ ba, các biện pháp tài khóa mạnh tay của Chính phủ đã thúc đẩy quá trình phục hồi nền kinh tế trong năm 2020 và tạo đà cho tăng trưởng kinh tế năm 2021.

Chính sách tài khóa thận trọng trong giai đoạn 2016-2020 đã làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP từ 63,7% năm 2016 xuống còn khoảng 55% GDP (năm 2020) (thấp hơn 10% so với ngưỡng của Quốc hội quy định); điều đó đã làm tăng dư địa tài khóa trong năm 2020 để khôi phục đà tăng trưởng kinh tế. Với dư địa tài khóa lớn và vị thế tài khóa vững chắc do chính quyền các cấp đã tích cực tích lũy được nguồn ngân sách đáng kể từ việc tiết kiệm chi tiêu trong chương trình đầu tư công giai đoạn 2016-2019, Chính phủ đã có được lượng vốn đầu tư công đủ lớn để khắc phục tác động tiêu cực từ sự lan tràn của đại dịch Covid-19 và sự tác động của quá trình gián đoạn tăng trưởng của nền kinh tế thế giới cũng như của các quốc gia trong khu vực. Hơn nữa, quy định dự phòng rủi ro mức 5% ngân sách quốc gia đã tạo ra cơ hội có được vùng đệm tài khóa bổ sung trong việc đối phó với cú sốc Covid-19 ngoài dự kiến. Ba lớp đệm bảo vệ tài khóa vững chắc trên đây đã đảm bảo được nguồn lực tài chính để Chính phủ thực hiện được hai mục tiêu chính: (i) hỗ trợ người dân và doanh nghiệp chống chọi với khủng hoảng; (ii) thúc đẩy quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế thông qua hỗ trợ tổng cầu nội địa. Lượng vốn đầu tư công được giải ngân trong năm 2020 đã giúp bù đắp phần nào sự suy giảm đầu tư của khu vực tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến ngày 30/12/2020, tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản đã được giải ngân ước đạt 455 nghìn tỷ đồng (bằng 80,3% kế hoạch năm 2020). Đây là một trong những nỗ lực của Chính phủ trong điều kiện nguồn thu bị giảm

Tuy nhiên nếu so sánh với mức tăng trưởng 7,02% của năm 2019 thì đã mức tăng trưởng kinh tế năm 2020 đã giảm 4,11%. Như vậy kết quả Việt Nam đạt được trong năm 2020 chỉ được đánh giá cao trong bối cảnh Covid-19 đang ảnh hưởng nặng nề trên toàn cầu. Với dự báo sang năm 2021, khi khả năng kiểm soát dịch bệnh tốt hơn thì đòi hỏi mức tăng trưởng kinh tế phải đạt được trạng thái bình thường mới, từng bước tăng dần có thể bằng hoặc cao hơn so với thời điểm trước khi xảy ra đại dịch.

2.2. Những cơ hội và thách thức của kinh tế Việt Nam trong năm 2021

*Cơ hội:

- Một loạt các hiệp định song phương và đa phương có hiệu lực từ năm 2021: 

Trong năm 2020, Việt Nam đã ký thêm 3 hiệp định thương mại quốc tế, mở ra thị trường rộng lớn chưa từng có bao gồm Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực RCEP và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA). Trong đó Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, mở đường cho việc tăng cường thương mại giữa EU và Việt Nam, xóa bỏ gần 99% thuế hải quan giữa hai bên. Như vậy sang năm 2021, việc loại bỏ thuế quan sẽ mang lại lợi ích cho các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như các sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép và nông sản. Tăng khối lượng xuất khẩu của Việt Nam sang EU, FTA sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng các ngành công nghiệp này, cả về vốn và tăng việc làm khi bước vào năm 2021.

- Sự chuyển dịch các chuỗi cung ứng sang các quốc gia có chi phí thấp cũng sẽ là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam sang năm 2021 tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

*Thách thức, khó khăn:

Mặc dù trong năm 2020 Việt Nam đã đạt được cả hai mục tiêu là kiểm soát dịch bệnh và phát triển kinh tế, tuy nhiên sang năm 2021, diễn biến dịch bệnh vẫn đang rất phức tạp, sẽ có sự tác động rất lớn đến nền kinh tế. Cụ thể:

Thứ nhất, đại dịch Covid-19 kéo dài trên toàn cầu sẽ là nguy cơ lớn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2021, bởi nó không chỉ làm thay đổi, xáo trộn chiến lược phát triển của các doanh nghiệp mà còn làm tăng trưởng kinh tế suy giảm và đảo lộn các định hướng, tầm nhìn của cơ quan Nhà nước.

Thứ hai, nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thấp: Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều bất ổn, chính sách cắt giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp cũng không hiệu quả khi mà vấn đề của nền kinh tế nằm ở việc thiếu nhu cầu vay vốn.

Thứ ba, việc phụ thuộc quá nhiều vào xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế trở nên mong manh trước các cú sốc đến từ bên ngoài. Đặc biệt là vấn đề căng thẳng thương mại toàn cầu, dẫn tới gia tăng bảo hộ thương mại và các rủi ro tài chính có thể trầm trọng thêm bởi đại dịch kéo dài. Tiêu dùng nội địa tiếp tục ở mức thấp bởi thu nhập hộ gia đình và doanh nghiệp giảm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và thêm nhiều doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động. Triển vọng đầu tư không đồng đều, đầu tư tư nhân còn yếu và đầu tư nước ngoài liên quan đến thương mại tiếp tục giảm. Trước thực tế này đòi hỏi Việt Nam cần phải đa dạng hóa hơn nữa các đối tác thương mại, từ đó giảm thiểu những cú sốc đến từ một đối tác thương mại cụ thể.

Thứ tư, sự bất định và rủi ro vẫn ở mức cao, tiếp tục ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Số doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể trong năm 2020 ước tính là 101,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 13,9% so với năm trước. Tuy nhiên, số doanh nghiệp dừng kinh doanh để làm thủ tục giải thể tăng cao, lên gần 17,5 nghìn doanh nghiệp (tăng 3,7%). Điều này khiến số doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong năm bình quân khoảng 8,5 nghìn doanh nghiệp. Bên cạnh đó, rủi ro và áp lực tài chính đối với một số doanh nghiệp có thể gia tăng trong thời gian tới khi thời hạn của các chính sách hỗ trợ đã ban hành kết thúc.

2.3. Một số đề xuất, kiến nghị

Một là, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng nhằm duy trì đà phục hồi và kích thích tăng trưởng kinh tế; thực hiện có hiệu quả các biện pháp hỗ trợ bổ sung cho các đối tượng gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Các bộ, ngành, cơ quan trung ương cần chủ động ban hành và tổ chức thực hiện các biện pháp hỗ trợ đối tượng gặp khó khăn, kích thích tổng cầu, tiêu dùng trong nước với trọng tâm là các ngành dịch vụ du lịch, lưu trú, ăn uống, vận tải… để đạt được "mục tiêu kép", vừa hỗ trợ các ngành gặp khó khăn, vừa kích thích tăng trưởng, tạo việc làm cho người lao động.

Hai là, chính sách gia tăng tín dụng nên hướng đến đối tượng là các doanh nghiệp ít bị tác động của đại dịch và có khả năng thúc đẩy đến các doanh nghiệp của các ngành hay các lĩnh vực khác. Bởi chính sách tiền tệ đã nới lỏng, lãi suất tương đối thấp nhưng nhu cầu vay vốn lại rất ít nên để tăng hiệu quả đầu tư tín dụng nên hướng đến các doanh nghiệp ít chịu ảnh hưởng của đại dịch.

Ba là, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước; Thực hiện các hoạt động đầu tư có hiệu quả để xây dựng nền tảng số nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi số của quốc gia; Tăng cường khả năng đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp và cơ quan nhà nước để thích ứng với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, từ dựa trên năng suất lao động sang dựa trên đổi mới sáng tạo. Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng của quốc gia sẽ tạo nên những lực tác động mới tới doanh nghiệp, người dân, nhà nước và các chủ thể trong nền kinh tế cần có một hệ thống thể chế được nâng cấp và phù hợp với tiến trình chuyển đổi số, hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển biến nền kinh tế theo hướng dựa trên đổi mới sáng tạo.

Bốn là, cải thiện môi trường kinh doanh và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhất là về các thủ tục hành chính. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số; khuyến khích các hình thức giao dịch trực tuyến, đẩy nhanh việc triển khai hệ thống thanh toán điện tử nhằm hướng tới duy trì hiệu quả thị trường trong nước và góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia nhờ giảm thời gian và chi phí giao dịch.

3. Kết luận

Mặc dù Việt Nam và thế giới đã có những kinh nghiệm để ứng phó với Covid-19 và chiến dịch tiêm chủng vắc-xin cũng được triển khai tại nhiều quốc gia nhưng việc kiểm soát dịch bệnh vẫn còn nhiều khó khăn. Trong phạm vi bài viết của mình tác giả đã chỉ ra những thách thức mà kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong năm 2021 như phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu, nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thấp, các chiến lược kinh tế bị xáo trộn do ảnh hưởng của dịch bệnh… Từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị giúp nền kinh tế khắc phục khó khăn và vượt qua khủng hoảng do dịch bệnh gây ra.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bùi Văn Huyên (2021), "Kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021", Tạp chí Tài chính.

2. Nguyễn Thị Phương Dung (2020), "Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021", Tạp chí Tài chính.

3. Nguyễn Minh Phong (2020), “Triển vọng tích cực kinh tế Việt Nam 2020-2021”, Nhân dân điện tử.

4. Quách Mạnh Hào (2020), “Kinh tế Việt Nam qua lăng kính thế giới”, Tuổi trẻ điện tử.

5. Quỹ Tiền tệ quốc tế (2020), “Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới tháng 11/2020”.

6.http://www.Tapchinganhang.gov.vn

7.http://www.Tapchitaichinh.vn

Th.S Đặng Thị Mai Chang

Đại học Hải Phòng

Bạn đang đọc bài viết Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2021 trong bối cảnh Covid-19 tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Bình luận

Tin liên quan