Diễn biến lạm phát và dự báo điều hành lãi suất của ngân hàng Trung ương các nền kinh tế phát triển hiện nay

28/10/2022, 11:31

TCDN - Lãi suất là công cụ điều hành chủ yếu, được sử dụng nhiều nhất và tác động mạnh nhất đến thị trường tài chính của Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nền kinh tế lớn, các quốc gia phát triển trên thế giới.

11-1

Tóm tắt

Lãi suất là công cụ điều hành chủ yếu, được sử dụng nhiều nhất và tác động mạnh nhất đến thị trường tài chính của Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nền kinh tế lớn, các quốc gia phát triển trên thế giới. Những diễn biến mới nhất và bất ngờ của tình hình chính trị, thị trường tài chính quốc tế từ cuối tháng 02/2022 đến nay đã đặt ra những thách thức mới trong điều hành chính sách tiền tệ của các nền kinh tế đó. Cuối năm 2021 và đầu năm 2022, sau hai năm thực hiện chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát trong bối cảnh diễn ra đại dịch COVID-19, NHTW của một loạt nền kinh tế lớn trên thế giới dự kiến quay trở lại điều hành trong trạng thái bình thường, thực hiện đường cong lãi suất. Tuy nhiên, diễn biến bất thường đã xảy ra, đó là bắt đầu vào ngày 24/02/2022, Nga triển khai “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở Ukraina đã làm thay đổi hoàn toàn dự kiến bình thường hóa chính sách tiền tệ đó. Giá dầu thô trên thị trường quốc tế tăng lên mức cao nhất trong 14 năm qua; giá khí đốt cùng một loại mặt hàng kim loại khác cũng tăng cao. Diễn biến đó làm giảm triển vọng tăng trưởng GDP của các nền kinh tế lớn cũng như toàn cầu. Vậy dự kiến NHTW trên thế giới sẽ điều hành lãi suất như thế nào? Lạm phát của Việt Nam dự kiến ra sao và ảnh hưởng như thế nào đến điều hành chính sách tiền tệ? Bài viết tập trung vào nội dung này của NHTW các nền kinh tế phát triển trên thế giới và đưa ra dự báo, khuyến nghị cho Việt Nam.

1. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT VÀ DỰ BÁO ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG CÁC NỀN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

1.1. Dự báo điều chỉnh lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương các nền kinh tế phát triển trên thế giới

Hiện nay, Mỹ là nền kinh tế có quy mô lớn nhất thế giới, hơn 70% giao dịch thương mại và thị trường tài chính toàn cầu được thực hiện bằng đô la Mỹ (USD). Mỗi khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) điều chính lãi suất thì nó có tác động đến toàn cầu. Do đó, thị trường tài chính quốc tế thường “ngóng trông” động thái của Fed trong mỗi đợt điều chỉnh lãi suất.

Trước khi xảy ra sự kiện quân sự giữa Nga và Ukraina, cùng với các nước phương Tây thực hiện nhiều biện pháp cấm vận kinh tế đối với Nga, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến thực hiện đợt tăng lãi suất 0,5% vào tháng 3/2022. Song dự kiến này đã không xảy ra, nguyên nhân xuất phát từ cuộc xung đột quân sự ở Ukraina. Tuy nhiên, Fed sẽ bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất chậm hơn với biên độ 0,25% trong kỳ mới nhất. Fed nhận định, xung đột Nga - Ukraina đưa đến những hậu quả khó lường, nhưng Fed vẫn xác định hành động mạnh mẽ hơn trong điều hành lãi suất nếu lạm phát không hạ nhiệt nhanh chóng như mong đợi.

Tại Mỹ diễn biến giá dầu thô và tỷ lệ lạm phát thường song hành với nhau và dự báo về lạm phát cũng tăng cao trở lại trong năm 2022 do ảnh hưởng của giá dầu tăng.Lạm phát của Mỹ đã tăng lên mức cao nhất trong vòng 40 năm qua, ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Cụ thể, CPI của Mỹ trong tháng 01/2022 tăng 7,5% so với cùng kỳ 2021 và tăng 0,6% so với tháng 12/2021. Số liệu lạm phát đã gia tăng áp lực lên Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong việc kiểm soát lạm phát và khiến Fed nghiêng về xu hướng chuẩn bị tăng lãi suất sớm và nhanh hơn. Nhiều nhà kinh tế từ một số tổ chức tài chính lớn như: Bank of America, BNP Paribas, Deutsche Bank, Goldman Sachs và TD Securities đều đang dự đoán là FED sẽ có từ 4 - 7 lần tăng lãi suất trong năm 2022, với tổng mức tăng lãi suất dao động từ 100 - 200 điểm cơ bản, tương đương tăng thêm 1% - 2%/năm. Thị trường tài chính toàn cầu lo ngại việc Fed tăng lãi suất sớm hơn, nhanh hơn cùng với Chương trình Thắt chặt Định lượng (Quantitative Tightening program) sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng và triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ trong năm 2022 (VNBA, 2015 - 2022).

Các tập đoàn ngân hàng hàng đầu trên thế giới của Mỹ, Pháp, Đức… đều dự báo Fed sẽ thực hiện các tần suất tăng lãi suất nhiều hơn trong năm 2022. Lạm phát tăng cao và kéo dài, Fed đã bắt đầu chương trình Tapper (cắt giảm các gói kích thích liên quan tới đại dịch) và dự kiến kết thúc vào tháng 3/2022; đồng thời, Anh và nhiều NHTW các nền kinh tế phát triển đã nâng lãi suất trước áp lực lạm phát gia tăng mạnh trên toàn cầu. Cụ thể, trong năm 2021, NHTW các nước đã có 112 lượt nâng lãi suất, dự báo năm 2022 sẽ có nhiều NHTW tiếp tục phải nâng lãi suất (VNBA, 2015 - 2022). Các rủi ro sụt giảm tăng trưởng bao gồm: kịch bản tiêu cực của dịch COVID-19, kinh tế Trung Quốc “hạ cánh cứng”, suy thoái kinh tế khu vực Eurozone, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung; áp lực lạm phát; các điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng và việc sớm cắt giảm các gói kích thích tài khóa và tiền tệ trong khi kinh tế chưa phục hồi vững chắc.

1.2. Ngân hàng Trung ương châu Âu

Diễn biến xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina tác động rất lớn đến nền kinh tế các quốc gia thuộc Eurozone. Tuy nhiên, đến giữa tháng 3/2022, NHTW châu Âu (ECB) vẫn giữ nguyên kế hoạch trước đây của mình. Nhiều NHTW có kế hoạch thúc đẩy tăng lãi suất, mặc dù diễn biến ở Ukraina khiến tất cả các nền kinh tế đều phải hết sức thận trọng trong điều hành lãi suất của NHTW.

Tham khảo diễn biến Bảng cân đối tiền tệ của NHTW các nền kinh tế lớn trên thế giới:Mỹ, khối Eurozone, Anh và Nhật Bản cho thấy xu hướng tăng lãi suất cơ bản đang rất rõ ràng trong bối cảnh diễn biến quân sự tại Ukraina. Với việc điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh mới, Bảng cân đối tài sản của các NHTW đang thu hẹp lại. Phân tích cụ thể về điều hành chính sách tiền tệ của nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới cho thấy, thái độ của các nhà hoạch định chính sách đối với việc thoát khỏi chính sách tài chính - tiền tệ nhằm kích thích tăng trưởng đã áp dụng trong giai đoạn đại dịch COVID-19 thì nay do diễn biến của thị trường tài chính thế giới, diễn biến tại Ukraina, họ đang thực hiện rất mạnh mẽ chính sách của mình trong bối cảnh mới.

Trong Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), NHTW châu Âu (ECB) có kế hoạch kết thúc mua tài sản trong Quý III/2022, đẩy nhanh việc thoát khỏi chương trình kích thích kinh tế bất thường do đại dịch COVID-19. Bởi vì Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) dự đoán trong năm 2022 lạm phát trung bình của khu vực Eurozone sẽ lên tới mức 5,1%, cao hơn gấp đôi mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của ECB đề ra từ đầu năm. ECB dự báo, xung đột quân sự Nga - Ukraina và các lệnh cấm vận của phương Tây đối với Nga đang tác động mạnh đến hoạt động kinh tế toàn cầu. Do đó, ECB chủ trương bất kỳ quyết định điều chỉnh lãi suất nào sẽ diễn ra “một thời gian” sau khi kết thúc mua tài sản thực hiện kích thích tăng trưởng sẽ được thực hiện chậm lại và thận trọng hơn bởi những diễn biến bất thường của thị trường tài chính quốc tế. Mặc dù vậy, các định chế ngân hàng dữ báo, lãi suất của ECB vào cuối năm 2022 vẫn sẽ tăng 40 điểm (bps).

1.3. Ngân hàng Trung ương Vương quốc Anh

Nền kinh tế Anh và đồng bảng Anh có vị thế lớn trên thế giới, nên điều hành lãi suất của NHTW Anh cũng có tác động lớn đến thị trường tài chính quốc tế. Tháng 3/2022, NHTW Anh (BOE) quyết định tăng lãi suất thêm 25 điểm (0,25%) phần trăm (bps) lên 0,75%/năm, sau khi đã bắt đầu chu kỳ thắt chặt với các đợt tăng vào tháng 12/2021 và tháng 2/2022.

Nguyên nhân chủ yếu của các quyết định này đó là tỷ lệ lạm phát tại Anh có xu hướng tăng và lạm phát được dự báo sẽ càng trầm trọng hơn do giá dầu thô tăng cao trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, BOE đang tiếp tục phân tích, đánh giá mức tăng đột biến của giá hàng hóa tiêu dùng tại Anh so với khả năng ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này xuất phát từ cuộc chiến tranh ở Ukraina. Do đó, dự báo việc tăng lãi suất kỳ tiếp theo của BOE sẽ chậm lại. Song mục tiêu tăng lãi suất của BOE sẽ lên mức 2% vào cuối năm 2022 là khó thay đổi mặc dù có biến động nói trên.

1.4. Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ

Thụy Sĩ có hệ thống ngân hàng phát triển hàng đầu thế giới, nhiều khoản cất trữ tài sản trên toàn cầu được gửi tại các ngân hàng Thụy Sĩ. Đồng Franc Thụy Sĩ cũng có vị trí và có ảnh hường lớn trên thị trường tài chính quốc tế. Cho đến giữa tháng 3/2022, Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ (SNB) – NHTW của nền kinh tế này vẫn giữ quan điểm bình tĩnh, thận trọng trong điều hành chính sách tiền tệ do diễn biến bất thường của kinh tế thế giới. SNB cho rằng, lập trường của mình là phù hợp ngay cả khi lạm phát của Thụy Sĩ đã chạm mức 2,2% vào tháng 02/2022, mức cao nhất kể từ năm 2008. Dòng chảy tài sản trên thế giới tìm kiếm những nơi trú ẩn sự an toàn tại Thụy Sĩ giữa cuộc xung đột quân sự ở Ukraina gây ra đã đẩy đồng Franc Thụy Sĩ tăng giá lên mức cao nhất so với đồng Euro kể từ tháng 01/2015, thời điểm khi SNB loại bỏ quy định neo tỷ giá.

1.5. Ngân hàng Trung ương Na Uy

Ngay từ tháng 9/2021, NHW Na Uy (Nordea) đã bắt đầu nâng lãi suất chủ đạo và tăng lãi suất cơ bản. Việc tăng lãi suất tiếp tục được NHTW Na Uy thực hiện thêm một lần nữa vào tháng 12/2021, lên 0,5%. NHTW Na Uy cũng dự kiến sẽ tăng lãi suất một lần nữa vào cuối tháng 3/2022. Nordea dự kiến sẽ có bốn lần tăng lãi suất trong năm 2022 nhằm kiềm chế lạm phát sau hai năm thực hiện các gói kích thích tăng trưởng kinh tế do ảnh hưởng của đại dịch.

1.6. Ngân hàng Trung ương Thụy Điển

Đầu tháng 3/2022, NHTW Thụy Điển (Riksbank) đã công bố kế hoạch tạm thời chưa tăng lãi suất do diễn biến mới của tình hình chính trị, quân sự và thị trường tài chính thế giới.

NHTW Thụy Điển đã đưa ra quyết định sẽ chỉ tăng lãi suất vào cuối năm 2024. Lạm phát cơ bản trong tháng 01/2022 của Thụy Điển ở mức 2,5%, nhưng các định chế lớn hoạt động trên thị trường tài chính quốc gia này dự báo việc tăng lãi suất của NHTW Thụy Điển sẽ không thực hiện trong các năm 2022, 2023 và chỉ có thể bắt đầu từ năm 2024.

1.7. Ngân hàng Dự trữ New Zealand

Tháng 01/2022, Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ) đã tăng lãi suất cơ bản thêm 25 điểm cơ bản (0,25%) lên 1%/năm và dự báo sẽ tiếp tục tăng thêm nữa trong chu kỳ thắt chặt tiền tệ. Ngân hàng Dự trữ New Zealand xác định cần phải hành động mạnh mẽ hơn để kiểm soát lạm phát. Tại thời điểm đầu tháng 3/2022, RBNZ cho rằng, còn quá sớm để đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng quân sự ở Ukraina đối với điều hành chính sách tiền tệ của NHTW nước này. Do đó, dự đoán NHTW New Zealand sẽ tăng lãi suất 0,5% trong tháng 4/2022 và lãi suất sẽ đạt 2,75% vào cuối 2022.

1.8. Ngân hàng Trung ương Canada

Mặc dù xảy ra chiến sự tại Ukraina từ ngày 24/02/2022, nhưng ngày 02/3/2022, NHTW Canada (BOC) vẫn quyết định tăng lãi suất cơ bản thêm 1/4 điểm (0,25%) lên mức 0,5%/năm.

Đây là đợt tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng 10/2018. Những diễn biến mới nhất tại Ukraina cùng gia tăng mạnh của giá dầu thô cũng không làm thay đổi mục tiêu của NHTW Canada trong cuộc chiến kiềm chế lạm phát đang ở mức cao nhất trong 30 năm tại Canada. Dự kiến NHTW Canada đặt mục tiêu tăng lãi suất trong năm 2022 ở mức lên thêm 0,5%.

1.9. Ngân hàng Dự trữ Australia

Đầu tháng 3/2022, Ngân hàng Dự trữ Australia (RBA) đã quyết định giữ nguyên lãi suất ở mức thấp kỷ lục 0,1% được duy trì trong thời gian dài, mặc dù trước đó, RBA có dự kiến tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát. Nguyên nhân RBA không tăng lãi suất tại thời điểm này bởi lý do cuộc khủng hoảng quân sự tại Ukraina dự báo sẽ gây ra nhiều bất ổn mới đối với thế giới, tác động mạnh đến nền kinh tế quốc gia này. Trước đó, tháng 02/2022, RBA đã thực hiện một kế hoạch mua trái phiếu, bơm tiền cho các định chế ngân hàng cho vay. Diễn biến đó cho thấy BRA thận trọng hơn trong việc tăng lãi suất bởi cuộc chiến tranh tại Ukraina, mặc dù nền kinh tế nước này đang trên đà tăng trưởng nhanh hơn dự báo trước đó của RBA.

1.10. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản

Tại châu Á, Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, sau Mỹ và Trung Quốc, nhưng lệ thuộc lớn vào việc nhập khẩu dầu mỏ, khí đốt, sắt, nguyên liệu thô từ thị trường thế giới. Do tác động của diễn biến quân sự tại Ukraina và các lệnh trừng phạt đối với Nga, giá cả hàng loạt mặt hàng chủ lực trên thị trường quốc tế gia tăng, đẩy nhiều mặt hàng nhập khẩu của Nhật Bản cũng tăng lên. Do đó, giá hàng hóa tại thị trường Nhật Bản tăng đột biến, từ đó có thể đẩy lạm phát của nước này tăng lên mức 2% trong năm 2022. Do đó, NHTW Nhật Bản (BOJ) đã loại trừ việc thắt chặt chính sách tiền tệ như đã dự kiến trước đó để đối phó với bất kỳ sự gia tăng lạm phát nào do chi phí nhiên liệu tăng cao. Điều đó có nghĩa là BOJ tạm thời quyết định chưa tăng lãi suất cơ bản của Nhật Bản. Lập trường thận trọng của BOJ trong điều hành chính sách tiền tệ, chưa tăng lãi suất là trường hợp cá biệt khi nhiều NHTW của các nền kinh tế phát triển tương tự Nhật Bản đang tăng dần lãi suất.

Tham khảo sức ép diễn biến thị trường tài chính quốc tế, xung đột quân sự Nga – Ukraina cùng các lệnh cấm vận kinh tế của phương Tây đối với Nga đã đẩy nền kinh tế Nhật Bản vào chuỗi tăng lãi suất, nhưng BOJ vẫn giữ quan điểm thận trọng trong chính sách lãi suất của mình, thể hiện tại diễn biến Bảng cân đối tiền tệ của BOJ và diễn biến chỉ số lạm phát cơ bản của Nhật Bản trong giai đoạn 2012 - 2021.

Số liệu trong Bảng cân đối tài sản của BOJ và lạm phát cơ bản của Nhật Bản giai đoạn 2011 - 2021 cho thấy tổng tài sản của BOJ ngày càng tăng cao. Diễn biến đó đồng nghĩa với việc NHTW nước này tăng cường mua trái phiếu, cung ứng tiền cho các ngân hàng để cho vay, kích thích tăng trưởng kinh tế. Lạm phát tại Nhật Bản tăng cao trong năm 2014 và năm 2015, giảm mạnh trong năm 2026 và cuối năm 2020, tăng cao cuối năm 2021 và đầu năm 2022. Tuy nhiên, đến nay, BOJ vẫn giữ quan điểm chưa tăng lãi suất.

1.11. Dự báo kinh tế toàn cầu và Trung Quốc

Trước khi xảy ra xung đột quân sự tại Ukraina, tháng 12/2021, cả Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đều thống nhất điều chỉnh giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2021 xuống 5%; năm 2022 dự báo tăng 3,8% (giảm 0,1 điểm % so với dự báo tháng trước). Hiệu lực bảo vệ của mũi vắc-xin tăng cường giảm xuống thấp sau khi tiêm 10 tuần (nghiên cứu của Anh) cho thấy dịch COVID-19 vẫn là mối đe dọa lớn đối với triển vọng kinh tế (VNBA, 2015 - 2022).

Tham khảo diễn biến tăng trưởng kinh tế thực tế (Real GDP Growth) toàn cầu, các nền kinh tế đang phát triển, các nền kinh tế tiên tiến, Mỹ, Trung Quốc và khu vực Eurozone giai đoạn 2019 - 2021 và dự báo giai đoạn 2022 - 2023 ở Hình 10 dưới đây. Trung Quốc là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất toàn cầu trong cả giai đoạn 2019 - 2021 cũng như dự báo năm 2022 và năm 2023. Trong khi đó, tất cả các khu vực và nền kinh tế còn lại được lựa chọn phân tích đều tăng trưởng âm trong năm 2020 do bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19.

Các rủi ro sụt giảm tăng trưởng GDP toàn cầu trong năm 2022 bao gồm: kịch bản tiêu cực của dịch COVID-19, kinh tế Trung Quốc “hạ cánh cứng”, suy thoái kinh tế khu vực Eurozone, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung; áp lực lạm phát; các điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng và việc sớm cắt giảm các gói kích thích tài khóa và tiền tệ trong khi kinh tế chưa phục hồi vững chắc. Bên cạnh đó là những diễn biến trong quan hệ giữa Nga - Ukraina và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Giá dầu mỏ, khí đốt, vàng... tăng cao. Do đó, dự báo tăng trưởng GDP nói trên chưa tính đến nhân tố rủi ro là sự kiện Ukraina. Sự kiện này đương nhiên sẽ làm thay đổi dự báo đã được đưa ra. Cho đến nay, NHTW Trung Quốc vẫn chưa đưa ra bất kỳ động thái nào về điều hành lãi suất cũng như điều hành chính sách tiền tệ nói chung trước diễn biến mới của thị trường tài chính quốc tế đang còn nhiều bất ổn.

2. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Diễn biến kinh tế vĩ mô nói chung, thị trường tài chính quốc tế nói riêng cũng như những tác động đến nền kinh tế Nga, Ukraina, Belarus…, điều hành lãi suất của NHTW các nền kinh tế phát triển, tỷ giá đều có tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay, quy mô dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng cao đạt mức trên 109,9 tỷ USD, gấp 10 lần quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước năm 2010 và gấp gần 4 lần so với năm 2015 và sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới theo quy mô của nền kinh tế, vượt qua mức 13 tuần nhập khẩu theo khuyến nghị chung của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đối với các nền kinh tế trên toàn cầu. Tổng tài sản có do Sở Giao dịch NHNN Việt Nam quản lý, bao gồm cả bằng nội tệ và ngoại tệ tính đến cuối năm 2021 đã lên tới 3.122.647,755 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với thời điểm cuối năm 2015 là 800.636 tỷ đồng. Do đó, Việt Nam sẵn sàng đủ năng lực ngoại tệ, chủ động can thiệp đảm bảo tỷ giá theo mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô và chống đô la hóa.

Do thị trường tài chính quốc tế trong những năm gần đây và dự kiến trong thời gian tới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, bao gồm chính sách lãi suất âm của một số NHTW trên thế giới trong giai đoạn 2020 - 2021 và tăng lãi suất từ đầu năm 2022, xếp hạng tín nhiệm một số quốc gia và đối tác giảm, thay đổi về chính sách thương mại, đầu tư của các nước lớn, do đó, đòi hỏi NHNN Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chủ động, nhưng cũng hết sức linh hoạt.

Quản lý dự trữ ngoại hối là nhiệm vụ rất quan trọng của NHTW các nước nói chung và của NHNN Việt Nam nói riêng bởi dự trữ ngoại hối đảm bảo khả năng thanh toán của quốc gia trong trường hợp xảy ra khủng hoảng tiền tệ và được dùng để can thiệp thị trường ngoại tệ trong nước theo các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đồng thời, quản lý dự trữ ngoại hối của NHTW bao gồm nhiều nhiệm vụ khác nhau đòi hỏi có kiến thức chuyên môn cao như: nghiệp vụ đầu tư trên thị trường quốc tế, quản lý danh mục đầu tư, quản lý rủi ro và thanh toán quốc tế, hạch toán kế toán... Do đó, NHNN Việt Nam cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường quốc tế, điều hành lãi suất của NHTW các nền kinh tế lớn, diễn biến tỷ giá của các đồng tiền chủ đạo để chủ động đối phó nhằm đảm bảo các hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam ổn định, phát triển bền vững.

NHNN Việt Nam cần chủ động phân tích những rủi ro lạm phát của Việt Nam, của các nền kinh tế lớn bị ảnh hưởng đến kinh tế bởi cuộc khủng hoảng quân sự tại Ukraina. Mới đây, giới tài chính quốc tế đưa ra một khái niệm khác về lạm phát, đó là “lạm phát kèm suy thoái” (stagflation). Thuật ngữ dùng để chỉ điều kiện tăng trưởng kinh tế chậm, tỷ lệ thất nghiệp cao, kèm theo giá cả tăng, nói cách khác là lạm phát kèm sụt giảm tăng trưởng GDP. Đây là một thực tế mà NHTW nhiều nước hết sức quan tâm khi sự kiện xung đột quân sự tại Ukraina xảy ra. Thuật ngữ “lạm phát kèm suy thoái” được đề cập thường xuyên bởi các chuyên gia tài chính, các nhà điều hành chính sách tiền tệ của nhiều NHTW trên thế giới khi căng thẳng ngày càng leo thang trên mặt trận kinh tế giữa các nước phương Tây và Nga. Việt Nam, với độ mở kinh tế hơn 200% GDP, càng khó tránh khỏi rủi ro này. Đây là vấn đề cần được phân tích, tính toán trên nhiều góc độ trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam.

Rủi ro đầu tiên chính là giá dầu. Giá dầu thô trên thị trường thế giới có thời điểm đã tăng vọt lên gần 140 USD/thùng, cao nhất trong 14 năm qua. Giá dầu thô tăng cao, giá bán lẻ xăng dầu tại Việt Nam cũng tăng cao, lên mức gần 30.000 đồng/lít. Giá dầu thô tăng đồng nghĩa gia tăng chi phí cho hầu hết ngành sản xuất, áp lực lạm phát với kinh tế toàn cầu càng lớn hơn. Các mặt hàng kim loại: sắt, thép, nhôm, đồng, chì và kim loại quý hiếm khác; phân bón, hóa chất, thức ăn chăn nuôi, lúa mì, nhiều mặt hàng lương thực khác trên thị trường quốc tế cũng tăng giá, ảnh hưởng lớn đến mặt bằng giá tiêu dùng tại Việt Nam.

Xét trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính CPI của Việt Nam hiện nay, riêng yếu tố giá bán lẻ xăng dầu đã ảnh hưởng trực tiếp đến nhóm giao thông, đứng thứ ba về quyền số tính CPI.

Bên cạnh đó, giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, nhóm đứng đầu chiếm hơn 33% quyền số tính CPI, cũng gián tiếp bị ảnh hưởng.

Tham khảo diễn biến chỉ số tăng giá bán lẻ của các nhóm hàng chủ yếu trong rổ hàng hóa tính CPI từ đầu năm 2018 đến tháng 2/2022 của Việt Nam ở Hình 11 dưới đây.Trong bối cảnh giá dầu và nhiều mặt hàng nguyên liệu thô trên thị trường quốc tế tăng cao, thương mại của Việt Nam đã bắt đầu bị tác động và thấy rõ ở kim ngạch nhập khẩu.

Kim ngạch nhập khẩu xăng dầu trong tháng 02/2022 tăng gần gấp hai lần mức trung bình một tháng của năm 2021. Xu hướng này nhiều khả năng sẽ tiếp diễn khi Nhà máy Lọc  dầu Nghi Sơn đang phải cắt giảm công suất xuống còn 80% và một trong những giải pháp để bù đắp nguồn cung là Bộ Công Thương giao các doanh nghiệp tăng nhập khẩu 2,4 triệu m3 xăng trong Quý II. Lạm phát tăng 1,4% trong tháng 02/2022 cũng chủ yếu do chi phí vận chuyển tăng trên 15% so với cùng kỳ, một xu hướng đã kéo dài. Diễn biến chỉ số CPI tại Việt Nam sẽ tiếp tục tạo áp lực gia tăng trong năm 2022 và có thể vượt qua nhiều dự báo của một số định chế tài chính quốc tế cũng như trong nước trước đó. Tuy nhiên, trong điều hành chính sách tiền tệ, NHNN Việt Nam cần phân tích rõ CPI tăng do sức ép chi phí đẩy bởi thị trường quốc tế, hay do cầu kéo, hay quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông để chủ động điều hành lãi suất, tỷ giá, hạn mức tăng trưởng tín dụng, thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chính phủ (2018 - 2021), Cổng thông tin của Chính phủ, truy cập tại: http://chinhphu.vn/ portal/page/portal/chinhphu/cacchuongtrinhduan; thời gian truy cập, từ ngày 08/01/2022 đến ngày 23/01/2022.

2. Fortune (2022), truy cập tại www.fortune.com, ngày 31/01/2022.

3. Hiệp hội Ngân hàng (2021), Thông tin hoạt động các ngân hàng hội viên, truy cập tại www.vnba.org.vn; thời gian truy cập, từ ngày ngày 8/1 đến ngày 23/01/2022.4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016 - 2021), Cổng thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, truy cập tại:https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu; mục các văn bản quy phạm pháp luật và thông cáo báo chí, các năm 2016 - 2021. thời gian truy cập, từ ngày 8/01/2022 đến ngày 23/01/2022.

5. SSI (2019 - 2022): “Báo cáo phân tích thị trường tài chính hàng tháng”; các tháng trong các năm 2019 - 2022”; Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn - file mềm gửi qua email cho nhà đầu tư mở tài khoản tại SSI, Hà Nội, 2019 - 2022.

6. Tổng cục Thống kê (2018 - 2021), truy cập tại: https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=2; thời gian truy cập, từ ngày 08/01 đến ngày 23/01/2022.

ThS. Thân Thị Vi Linh

Học viện Ngân hàng

Tạp chí in số 8/2022
Bạn đang đọc bài viết Diễn biến lạm phát và dự báo điều hành lãi suất của ngân hàng Trung ương các nền kinh tế phát triển hiện nay tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Bình luận

Tin liên quan