Nợ thuế tính đến cuối 2018 lên tới hơn 81.000 tỷ đồng
TCDN - Sáng ngày 17/9, UBTV Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về xử lý tiền thuế nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước.
Trình bày Báo cáo, Bộ trưởng Bộ Tài Chính Đinh Tiến Dũng cho biết, trong thời gian qua, cơ quan quản lý thuế đã có nhiều nỗ lực trong việc thu hồi nợ đọng thuế, theo đó số thu hồi nợ đọng tăng dần qua các năm, năm sau luôn cao hơn năm trước.
Tuy nhiên, tình hình nợ đọng thuế vẫn còn cao, tổng số tiền thuế nợ tính đến ngày 31/12/2018 là 81.618 tỷ đồng, tăng 4% so với thời điểm 31/12/2017, trong đó tiền thuế nợ không có khả năng thu ngân sách là 41.387 tỷ đồng, chiếm 50,7% tổng số tiền thuế nợ. Cơ quan thuế quản lý là 37.572 tỷ đồng, Cơ quan Hải quan quản lý là 3.815 tỷ đồng.
Mặt khác, Luật Quản lý thuế năm 2006 đã qua ba lần bổ sung sửa đổi, tuy nhiên Luật Quản lý thuế hiện hành chưa có quy định để xử lý nợ thuế đối với người nộp thuế đã chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh và thực sự không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, nên số nợ tiền thuế, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp tồn tại dây dưa kéo dài.
Bên cạnh đó, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 vừa được Quốc hội thông qua có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020, trong đó đã có quy định để xử lý nợ cho các đối tượng này, như khoanh nợ (tại Điều 83), xóa nợ tiền thuế, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp (tại Điều 85), không tính tiền chậm nộp (tại Điều 59). Các quy định này được áp dụng cho đối tượng nợ thuế phát sinh từ ngày 01/7/2020 trở đi, không áp dụng đối với các trường hợp nợ thuế phát sinh trước ngày 01/7/2020.
Từ tình hình trên, Bộ trưởng Bộ Tài Chính Đinh Tiến Dũng cho rằng, cần thiết phải xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về xử lý tiền thuế nợ của người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, để tạo cơ chế pháp lý xử lý dứt điểm tiền thuế nợ, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp tồn tại lâu năm không còn khả năng thu của các đối tượng đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự...
Bộ trưởng Bộ Tài Chính Đinh Tiến Dũng cho biết, Nghị quyết này quy định về xử lý tiền thuế nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, bao gồm tiền thuế, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp, tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành. Đối tượng áp dụng bao gồm: người nộp thuế có tiền thuế nợ thuộc đối tượng được xử lý tiền thuế nợ quy định tại Nghị quyết này; cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Dự thảo Nghị quyết quy định 04 nguyên tắc xử lý nợ bao gồm nguyên tắc đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật, đúng đối tượng, đúng thẩm quyền và đảm bảo điều kiện quy định hồ sơ, quy trình, thủ tục; nguyên tắc ông khai, minh bạch việc xử lý tiền thuế nợ, đảm bảo việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, giám sát của người dân; tháo gỡ khó khăn cho người nộp thuế, nhưng phải phòng ngừa và ngăn chặn việc lợi dụng chính sách để trục lợi và cố tình chây ỳ, nợ thuế; các trường hợp đã được xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp, nếu phát hiện việc xóa nợ không đúng quy định hoặc người nộp thuế quay lại sản xuất, kinh doanh hoặc thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới thì phải hủy quyết định xóa nợ và nộp vào ngân sách khoản nợ đã được xóa.
Đối tượng xử lý nợ gồm 07 nhóm đối tượng: người nộp thuế là người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự; người nộp thuế có quyết định giải thể gửi cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh, chưa hoàn thành thủ tục giải thể; người nộp thuế đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý thuế; người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác; người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ nhưng chưa được thanh toán.
Nghị quyết quy định Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế quyết định việc khoanh nợ. Đối với doanh nghiệp và tổ chức, Thủ tướng Chính phủ quyết định xóa nợ đối với trường hợp nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp từ 15 tỷ đồng trở lên; Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định xoá nợ đối với trường hợp nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp từ 10 tỷ đồng đến dưới 15 tỷ đồng; Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quyết định xoá nợ đối với trường hợp nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp từ 05 tỷ đồng đến dưới 10 tỷ đồng; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xóa nợ đối với trường hợp nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp dưới 05 tỷ đồng. Đối với cá nhân, cá nhân kinh doanh, hộ gia đình, hộ kinh doanh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp trên cơ sở hồ sơ đề nghị xóa nợ của cơ quan quản lý thuế.
Nghị quyết giao cơ quan quản lý thuế kiểm tra, xác định đối tượng nợ thuế và các khoản tiền thuế nợ, tiếp nhận và lập hồ sơ xử lý khoanh nợ, xóa nợ theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền xóa nợ theo quy định tại Nghị quyết này; thực hiện việc giám sát, kiểm tra xử lý nợ đảm bảo công khai, minh bạch, đúng đối tượng, tránh thất thoát ngân sách; công khai quyết định khoanh tiền thuế nợ, quyết định xóa nợ lên website ngành thuế hoặc Hải quan.
Thời gian Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2020 và thực hiện trong thời hạn 03 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành.
email: [email protected], hotline: 086 508 6899