Phát triển kinh tế tỉnh Gia Lai bền vững trong bối cảnh hội nhập

26/04/2025, 10:31

TCDN - Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị cùng sự nỗ lực của các cấp, các ngành và nhân dân toàn tỉnh, sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ 16, nhiệm kỳ 2020-2025, tỉnh Gia Lai đã đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.

TÓM TẮT:

Mục tiêu tổng quát của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Gia Lai: Phát triển kinh tế - xã hội nhanh, hiệu quả và bền vững; nâng cao chất lượng tăng trưởng, hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh. Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế thị trường; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phấn đấu đến năm 2030 trở thành vùng động lực khu vực Tây Nguyên. Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị cùng sự nỗ lực của các cấp, các ngành và nhân dân toàn tỉnh, sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ 16, nhiệm kỳ 2020-2025, tỉnh Gia Lai đã đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù đây là giai đoạn có nhiều khó khăn, thách thức nhưng những mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, tăng trưởng kinh tế chất lượng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,… vẫn đạt được những thành tựu nhất định.

Từ khóa: Phát triển kinh tế bền vững; Phát triển kinh tế tỉnh Gia Lai; Phát triển kinh tế tỉnh Gia Lai bền vững.

1. Kết quả phát triển kinh tế tỉnh Gia Lai giai đoạn 2020 - 2024

1.1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm (GRDP) và GRDP bình quân đầu người tỉnh Gia Lai giai đoạn 2020 - 2024

Gia Lai là tỉnh nằm ở phía bắc Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh. Trong những năm qua kinh tế Gia Lai có bước phát triển, kinh tế tăng trưởng khá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi, tỉnh Gia Lai phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ảnh hưởng lớn đến mọi hoạt động kinh tế-xã hội, đời sống của nhân dân. Trong bối cảnh đó, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, của Tỉnh ủy; sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời của cả hệ thống chính trị cùng sự chung tay đầy trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp và sự đồng thuận của nhân dân, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị đã đạt một số kết quả quan trọng.

z6543410376445_4b76d8fbfea63ef5ac7c47e57e19ec6d

Theo số liệu trên, từ năm 2020 đến năm 2024, tỉnh đã trải qua nhiều thay đổi kinh tế, thể hiện qua sự thay đổi của tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) và GRDP bình quân đầu người. Phân tích chi tiết các số liệu qua các năm sẽ thấy rõ hơn về bức tranh kinh tế của Gia Lai trong giai đoạn này.

Năm 2020, Gia Lai đạt tốc độ tăng GRDP 8,00%, một con số khá ấn tượng trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bắt đầu lan rộng. GRDP bình quân đầu người đạt 51,90 triệu đồng, cho thấy mức sống của người dân còn ở mức trung bình so với cả nước. Tuy nhiên, đây là một tín hiệu tích cực cho thấy nền kinh tế tỉnh vẫn duy trì được sự ổn định và có khả năng phục hồi. Trong năm này, các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp vẫn đóng vai trò chủ lực, nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi và chính sách hỗ trợ của tỉnh.

Năm 2021, Gia Lai ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc với tốc độ tăng GRDP lên đến 9,71%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2020-2024. GRDP bình quân đầu người cũng tăng lên 56,31 triệu đồng, cho thấy đời sống người dân được cải thiện đáng kể. Sự tăng trưởng này có thể được lý giải bới việc kiểm soát dịch bệnh hiệu quả hơn, giúp các hoạt động sản xuất kinh doanh trở lại bình thường. Ngoài ra, việc đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng và thu hút các dự án đầu tư lớn cũng góp phần quan trọng vào sự trưởng này.

Năm 2022, tốc độ tăng GRDP của Gia Lai giảm nhẹ xuống 9,27%, nhưng vẫn duy trì ở mức cao. GRDP bình quân đầu người tiếp tục tăng lên 66 triệu đồng. Sự giảm nhẹ trong tốc độ tăng trưởng có thể do tác động của các yếu tố bên ngoài như biến động kinh tế thế giới và sự cạnh tranh từ các địa phương khác. Tuy nhiên, GRDP bình quân đầu người tiếp tục tăng cho thấy nền kinh tế vẫn đang phát triển theo hướng bền vững, tập trung vào nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

Tuy nhiên, đà tăng trưởng này đã chậm lại trong giai đoạn 2023-2024. Năm 2023, tốc độ tăng GRDP giảm xuống còn 8,62%, và đến năm 2024, con số này giảm mạnh chỉ còn 3,28%. Sự sụt giảm đáng kể này có thể kể đến một số nguyên nhân chính như: ảnh hưởng kéo dài của đại dịch COVID-19, biến động của thị trường nông sản, sự cạnh tranh gay gắt từ các tỉnh thành khác, và những hạn chế về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Năm 2023 cũng chứng kiến sự sụt giảm đáng kể của GRDP bình quân đầu người, xuống còn 59,84 triệu đồng. Điều này có thể là do tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, kết hợp với sự gia tăng dân số, dẫn đến thu nhập bình quân đầu người giảm. Đến năm 2024, GRDP bình quân đầu người đã phục hồi và đạt mức cao nhất trong giai đoạn, 68,02 triệu đồng. Sự phục hồi này cho thấy nền kinh tế Gia Lai đã có những điều chỉnh và thích ứng nhất định, giúp cải thiện thu nhập của người dân.

Nhìn chung, giai đoạn 2020-2024 là một giai đoạn đầy thách thức đối với kinh tế Gia Lai. Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể trong giai đoạn đầu, nhưng sự chậm lại trong tăng trưởng GRDP và sự biến động của GRDP bình quân đầu người cho thấy những khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Để đạt được sự tăng trưởng bền vững trong tương lai, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước Gia Lai cần nỗ lực đồng bộ và quyết tâm cao.

1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành tỉnh Gia Lai giai đoạn 2020 - 2024

Cơ cấu lại nền kinh tế là một nội dung lớn, quan trọng và cấp bách đối với Gia Lai hiện nay, nhất là khi Gia Lai đang nỗ lực đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh thế giới và trong nước thay đổi sâu sắc sau dịch bệnh Covid-19. Giai đoạn 2020-2024, việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, hoàn thành cơ bản các mục tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng được nâng lên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, năng suất lao động được cải thiện, huy động vốn đầu tư phát triển tăng; quản lý nợ xấu, nợ công có nhiều tiến bộ, hiệu quả sử dụng vốn được cải thiện; thể chế luật pháp, kinh tế, môi trường đầu tư, kinh doanh, xếp hạng năng lực cạnh tranh được cải thiện đáng kể. Kết quả chuyển đổi cơ cấu kinh tế ngành đạt được nổi bật như sau:

z6543410376566_d056feb36c7efaa3a9d0196345aad50c

Ngành nông - lâm - thủy sản, một trong những trụ cột chính của tỉnh, đã có những biến động rõ rệt trong cơ cấu kinh tế. Năm 2020 chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế (37,18%). Điều này liên quan đến việc Gia Lai có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm như cà phê, cao su, và các loại cây trồng khác. Năm 2021, tỷ trọng của ngành này đạt 30,38%, cho thấy vai trò quan trọng của nó trong việc tạo ra giá trị và thu nhập cho người dân Gia Lai. Tuy nhiên, sang năm 2022, tỷ trọng này sụt giảm mạnh xuống còn 11,8%. Nguyên nhân có thể do sự ảnh hưởng tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu và dịch bệnh, khiến nhiều nông sản không đạt chất lượng, dẫn đến giảm sút trong sản xuất. Mặc dù tỷ lệ đã phục hồi lên 26,23% vào năm 2023 và 26,91% vào năm 2024, nhưng vẫn chưa thể quay trở lại mức cao như trước. Điều này cho thấy ngành nông - lâm - thủy sản cần có những giải pháp phù hợp để phát triển bền vững hơn trong tương lai.

Ngành công nghiệp - xây dựng cũng ghi nhận sự thay đổi tích cực và tiêu cực trong giai đoạn này. Năm 2020, ngành này đóng góp 28,46% vào GRDP của tỉnh, năm 2021 giảm còn 23,42%. Đến năm 2022, tỷ trọng tăng mạnh lên 38,26%, một dấu hiệu cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực công nghiệp và xây dựng. Nguyên nhân có thể là do tỉnh đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư và phát triển hạ tầng cơ sở. Tuy nhiên, vào năm 2023, tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng giảm xuống còn 29,48% và tiếp tục xuống 27,80% vào năm 2024. Đây là một tín hiệu cảnh báo về sự ổn định và bền vững của ngành này, đặc biệt là trong bối cảnh giá nguyên liệu và chi phí sản xuất tăng cao.

Ngành dịch vụ của Gia Lai tiếp tục phát triển ổn định và là một trong những điểm sáng trong cơ cấu ngành kinh tế. Tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GRDP đạt 31,68% vào năm 2020, tăng lên 40,57% vào năm 2021 và 41,33% vào năm 2022 và duy trì ở mức 40,37% trong năm 2023, trước khi tăng nhẹ lên 41,39% vào năm 2024. Sự phát triển của ngành dịch vụ có thể được lý giải bởi nhu cầu đa dạng của người dân và sự phát triển của du lịch, thương mại và dịch vụ tài chính. Tiềm năng du lịch thiên nhiên và các lễ hội văn hóa phong phú của Gia Lai đang giúp ngành dịch vụ trở thành một động lực tăng trưởng quan trọng.

Cuối cùng, phần thuế sản phẩm trong GRDP đã có những biến động không lớn, nhưng nó phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh tại tỉnh. Tỷ lệ thuế sản phẩm lần lượt là 3,16% năm 2020 tăng lên 5,63% vào năm 2021, tăng lên 8,53% năm 2022, nhưng giảm còn 3,92% vào năm 2023 và 3,90% năm 2024. Sự giảm sút này có thể do những khó khăn trong sản xuất và khả năng tiêu thụ của thị trường, điều này cần được tỉnh chú trọng trong thời gian tới.

Nhìn chung, cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Gia Lai trong những năm qua đã cho thấy sự chuyển dịch rõ rệt với những thách thức và cơ hội. Để củng cố và phát triển kinh tế một cách bền vững, Gia Lai cần thực hiện các giải pháp như cải thiện công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh các dự án công nghiệp và đầu tư vào ngành dịch vụ. Hơn nữa, việc tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng rất cần thiết để Gia Lai phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình.

1.3. Một số thành tựu khác của tỉnh Gia Lai giai đoạn 2020-2024

Ngoài thành tựu về tốc độ tăng trưởng và GRDP bình quân đầu người, một số thành tựu sau thể hiện nỗ lực của tỉnh Gia Lai trong việc phát triển kinh tế, xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân trong giai đoạn 2020-2024:

Đầu tư hạ tầng, nhiều công trình hạ tầng lớn đã được hoàn thành, bao gồm cầu đường, thủy lợi và cơ sở chế biến nông sản, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của người dân. Các dự án kêu gọi đầu tư được đẩy nhanh tiến độ, nhất là các dự án năng lượng tái tạo.

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao: Nông nghiệp ứng dụng công nghệ, Gia Lai đã chú trọng phát triển nông nghiệp công nghệ cao với 18 vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hình thành. Tỉnh hướng tới mở rộng số vùng này lên 33 vào năm 2030, với sản phẩm chủ lực là trái cây, rau sạch và các sản phẩm hữu cơ; Xuất khẩu nông sản: Gia Lai đã đạt nhiều thành tựu trong xuất khẩu nông sản, với cà phê, trái cây xuất khẩu sang nhiều thị trường quốc tế, góp phần tạo nguồn thu nhập lớn cho địa phương.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tiếp tục được chú trọng, đến nay toàn tỉnh có 03 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (thành phố Pleiku, thị xã An Khê và thị xã Ayun Pa); có 91 xã đạt chuẩn nông thôn mới, có 131 thôn, làng đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó 110 thôn, làng vùng đồng bào dân tộc thiểu số); bình quân đạt 14,55 tiêu chí nông thôn mới/xã. Đến cuối năm 2024, toàn tỉnh còn khoảng 23.884 hộ nghèo, chiếm 6,07%. Trong đó, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số là 21.377 hộ, chiếm 12,71%. Toàn tỉnh hiện còn 34.546 hộ cận nghèo, chiếm 8,77%, trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số là 27.671 hộ cận nghèo, chiếm 16,45%.

Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, Gia Lai đã triển khai nhiều chương trình bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng không khí, nước, và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Công tác trồng rừng, bảo tồn các diện tích rừng còn lại được chú trọng. Các chính sách khuyến khích phát triển bền vững và nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường đã được triển khai, đóng góp vào sự phát triển tỉnh bền vững.

Các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, khoa học và công nghệ, thông tin truyền thông, giải quyết việc làm có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ huy động học sinh đi học các cấp đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; an ninh chính trị, an ninh biên giới, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Đặc biệt, việc triển khai thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia: giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới (NTM), phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, thay đổi diện mạo nông thôn và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.

Về thực hiện 4 chương trình trọng tâm, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 28.6.2021 về tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tỉnh đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 20.1.2022 về phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 20.1.2022 về phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững, tăng cường sinh kế, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng; Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 20.1.2022 về đẩy mạnh thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp năng lượng tái tạo và du lịch. Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, các sở, ban, ngành, địa phương đã tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp. Các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 07-NQ/TU cơ bản đã đạt được. Cụ thể, từ năm 2020 đến tháng 7.2023, trên địa bàn tỉnh có 132 dự án được UBND tỉnh phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư với tổng vốn hơn 86.861 tỷ đồng, trong đó có 34 dự án đã triển khai xây dựng, hoàn thành đi vào hoạt động kinh doanh.

Từ nay đến cuối nhiệm kỳ, các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh sẽ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo, huy động, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, xác định và cụ thể hóa các nội dung trọng tâm của nhiệm kỳ 2020 - 2025 thành các chỉ thị, nghị quyết, đề án, quy định, quy chế để tổ chức thực hiện.

2. Kinh nghiệm và bài học thực tiễn của tỉnh Gia Lai trong phát triển kinh tế bền vững

Giai đoạn 2020-2024 đã chứng kiến những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế của tỉnh Gia Lai. Với những nỗ lực không ngừng, Gia Lai đang từng bước khẳng định vị thế của mình, góp phần vào sự phát triển chung của khu vực Tây Nguyên và đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Gia Lai vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức. Qua bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội 16 của Đảng bộ tỉnh, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm, đó là:

Một là, để lãnh đạo thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đề ra phải tập trung xây dựng Đảng bộ thật sự trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; tạo sự đồng thuận xã hội trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Hai là, phát huy lợi thế của các ngành, vùng, thành phần kinh tế đảm bảo thực hiện chiến lược phát triển kinh tế bền vững, tập trung nguồn vốn, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng cơ chế khuyến khích, động viên mọi nguồn nội lực phục vụ phát triển kinh tế bền vững. Đây là nguồn lực rất quan trọng, trong lâu dài có ý nghĩa quyết định. Đồng thời tranh thủ thời cơ về tích lũy vốn, huy động vốn từ nước ngoài, nhanh chóng tiếp cận được với kinh nghiệm, công nghệ tiến tiến, đặc biệt các công nghệ sạch, thân thiện môi trường.

Ba là, phát huy vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế. Thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, nhà nước điều chỉnh một cách linh hoạt, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát của nền kinh tế cho phù hợp với thực trạng, bảo đảm cho nền kinh tế đạt hiệu suất, hiệu quả cao. Tránh việc quá tập trung vào phát triển về mặt kinh tế, mà xem nhẹ các vấn đề xã hội và môi trường, tránh việc thực hiện các chính đầu tư lệch lạc, quá ưu tiên khu vực, ngành, thành phần kinh tế này mà xem nhẹ các khu vực, ngành, thành phần kinh tế khác.

Bốn là, phải xác định rõ và tập trung đầu tư giải quyết tốt những khâu trọng tâm, trọng điểm, nhất là về quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch. Phát triển kết cấu hạ tầng đặc biệt là hạ tầng giao thông làm khâu đột phá, tạo nền tảng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cùng với quan tâm phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu các mặt văn hóa, xã hội, làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng một thành phố văn minh, hiện đại, giàu tính nhân văn.

Năm là, bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội phải đi cùng với tăng trưởng kinh tế chứ không phải đi sau.

Sáu là, kịp thời cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh, của từng địa phương. Trong lãnh đạo, điều hành phải năng động, sáng tạo, xác định những vấn đề trọng tâm; tận dụng nắm bắt các cơ hội thuận lợi, tập trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách trước mắt, giải quyết kịp thời những yếu kém, khó khăn, vướng mắc. Tiến hành đồng bộ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.

3. Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế tỉnh Gia Lai bền vững trong bối cảnh hội nhập

Để thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội 16 của Đảng bộ tỉnh đã đề ra, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân phải tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên; huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, nỗ lực vượt qua khó khăn để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Trong đó, tập trung lãnh đạo thực hiện hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập, cụ thể:

Thứ nhất, tập trung lãnh đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế trọng tâm, triển khai các đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Triển khai các đề án, dự án có tính lan tỏa và là động lực cho phát triển của tỉnh. Cần tạo môi trường ổn định về chính trị - xã hội, thường xuyên coi việc thiết lập chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa công tác quy hoạch, trước hết là quy hoạch sử dụng đất, rừng; quan tâm giữ rừng, bảo vệ rừng, có cơ chế, chính sách phù hợp để người dân bảo vệ rừng và quản lý rừng được thụ hưởng lợi ích thỏa đáng từ rừng; điều tiết hợp lý nguồn nước. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại nhưng vẫn lấy nông, lâm nghiệp là trọng tâm của sự phát triển. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực: huy động tối đa mọi nguồn vốn tập trung cho sản xuất - kinh doanh, chú trọng hiệu quả sử dụng vốn; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao mà trọng tâm là giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh ứng dụng KHCN vào sản xuất chế biến nhằm gia tăng giá trị hàng hóa, chú trọng việc ứng dụng KHCN và sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn. Đồng thời, tỉnh cần đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội và đảm bảo an sinh xã hội trong khu vực nông thông và thành thị; chú trọng cải thiện môi trường sinh thái, xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.

Thứ hai, nêu cao trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương trong lãnh đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Trước mắt, tập trung rà soát, lãnh đạo thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chương trình hành động của Tỉnh ủy đã ban hành; triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6 tháng 10 năm 2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tập trung chỉ đạo thực hiện ba chương trình mục tiêu quốc gia, bảo đảm thực chất, hiệu quả, thiết thực, không chạy theo thành tích, lấy lợi ích của nhân dân là mục tiêu cuối cùng của mọi nhiệm vụ. 

 Thứ ba, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đổi mới phương thức học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; nắm bắt kịp thời dư luận, tình hình tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tiếp tục thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Chú trọng công tác dân vận, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, bảo đảm thực chất, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn.

Nhiệm vụ đặt ra trong nửa nhiệm kỳ còn lại hết sức nặng nề, song với truyền thống đoàn kết, với kết quả và kinh nghiệm đã có, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc tỉnh Gia Lai quyết tâm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16, nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra, tạo được nhiều nguồn lực mới cho nhiệm kỳ tới. Sớm hoàn chỉnh kế hoạch triển khai quy hoạch tỉnh Gia Lai thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Bộ tỉnh Gia Lai (2020), Văn Kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XVI.

2. Chỉ thị số 09/CT-UBND của  UBND tỉnh Gia Lai ngày 04 tháng 5 năm 2020 “về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025”.

3. Cục Thống kê tỉnh Gia Lai, Niên giám thống kê các năm: 2020, 2021, 2022, 2023.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.

5. PGS.TS Phạm Thị Khanh (Chủ biên, 2010), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Hữu Sở (2009), Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai, Báo cáo số liệu hiện trạng rừng tỉnh Gia Lai các năm: 2020, 2021, 2022, 2023.

8.https://baogialai.com.vn/chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-giam-ngheo-ben-vung-nhung-ket

Võ Thị Kiều Trinh, Phạm Thị Thanh Hà - Phân hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh tại Gia Lai

Nguyễn Thị Hà Giang - Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh tại Ninh Thuận

Bái in số tháng 4/2025

Bạn đang đọc bài viết Phát triển kinh tế tỉnh Gia Lai bền vững trong bối cảnh hội nhập tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

x