Chuyển đổi số và tái định hình đào tạo nguồn nhân lực

25/07/2025, 08:34

TCDN - Chuyển đổi số không chỉ đòi hỏi nhân lực phải thấu hiểu công nghệ, mà còn phải thay đổi cả tư duy, phương thức làm việc, và nội dung đào tạo. Bài viết phân tích những vấn đề then chốt trong công tác đào tạo nguồn nhân lực trên nền tảng số và đề xuất giải pháp mang tính hệ thống và khả thi.

Tóm tắt

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu với những bước nhảy về công nghệ, nguồn nhân lực, yếu tố then chốt quyết định sự thích ứng và  nâng năng lực cạnh tranh của một quốc gia đang đối mặt với những thách thức chưa từng có. Chuyển đổi số không chỉ đòi hỏi nhân lực phải thâu thấu hiểu công nghệ, mà còn phải thay đổi cả tư duy, phương thức làm việc, và nội dung đào tạo. Bài viết này tiến hành phân tích những vấn đề then chốt trong công tác đào tạo nguồn nhân lực trên nền tảng số, đánh giá hiện trạng, xác định thách thức và đề xuất hệ thống giải pháp mang tính hệ thống và khả thi.

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu nhằm: Lý giải đặc trưng của chuyển đổi số trong mối liên hệ với nhu cầu tái định hình hệ thống đào tạo nguồn nhân lực từ cấu trúc chương trình, phương pháp giảng dạy đến mô hình tổ chức học tập. Phân tích những thách thức và mâu thuẫn nổi bật trong thực trạng đào tạo nguồn nhân lực tại Việt Nam dưới tác động của chuyển đổi số. Đề xuất một số giải pháp thực tiễn và chiến lược nhằm xây dựng một hệ sinh thái học tập số linh hoạt, hội nhập và bền vững, trong đó đào tạo không chỉ là nhiệm vụ của nhà trường mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội.

Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tài liệu thứ cấp; Phân tích định tính chuyên sâu; Vận dụng mô hình lý thuyết: Gồm khung năng lực số DigComp 2.1 (EU), mô hình tổ chức học tập của Peter Senge (1990), và lý thuyết đào tạo theo nền tảng (platform-based learning). Tổng hợp hệ thống, gắn kết dữ liệu, lý luận và thực tiễn để đề xuất giải pháp mang tính định hướng.

Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực hiện nay

Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số tại Việt Nam cho thấy, hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường: hoặc thích ứng nhanh chóng với đòi hỏi của thời đại số, hoặc tụt hậu trước những biến động toàn cầu, trong đó những vấn đề nổi bật bao gồm: Chương trình đào tạo còn lạc hậu, phần lớn các chương trình vẫn nặng lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành số, và chưa tích hợp các kỹ năng mềm, những năng lực không thể thiếu trong thế giới việc làm hiện đại. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng đầu ra mà còn làm gia tăng khoảng cách giữa những gì được dạy và những gì xã hội cần.

Mặt khác, thiếu kết nối giữa nhà trường - doanh nghiệp, mối liên hệ giữa các cơ sở đào tạo và khu vực sản xuất kinh doanh vẫn mang tính hình thức. Các doanh nghiệp cho rằng rằng, sinh viên tốt nghiệp thiếu kỹ năng ứng dụng, tư duy phản biện, và năng lực sử dụng công cụ số. Trong khi đó, nhà trường lại chưa theo kịp và điều chỉnh chương trình đào tạo theo phản hồi thực tế từ thị trường lao động. Bên cạnh đó, việc đào tạo giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu mới, vẫn còn hạn chế trong năng lực số, thiếu kỹ năng thiết kế học liệu số, phương pháp giảng dạy tích hợp công nghệ; chưa thể đảm đương vai trò của người “dẫn đường số hóa”, tạo dựng cảm hứng và không gian sáng tạo cho người học.

Ngoài ra, khoảng cách số và bất bình đẳng vùng miền. Sự thiếu hụt hạ tầng công nghệ và năng lực số tại vùng sâu, vùng xa làm gia tăng khoảng cách tri thức giữa các nhóm dân cư. Hệ quả là cơ hội học tập, tiếp cận thị trường lao động và phát triển nghề nghiệp bị phân tầng rõ rệt, đi ngược lại tinh thần bao trùm của chuyển đổi số...

Có một thực tế là, mâu thuẫn giữa tốc độ công nghệ và độ trễ đào tạo: Khi công nghệ đổi mới với nhịp độ thần tốc, hệ thống đào tạo vẫn vận hành trong guồng máy cũ, thiếu cơ chế phản ứng nhanh và đổi mới liên tục. Tình trạng này dẫn tới một nghịch lý người học ra trường với kỹ năng đã lỗi thời. Nghịch lý khác là, giữa học suốt đời và văn hóa thi cử, dù triết lý học tập suốt đời đã được khẳng định trong nhiều văn bản chính sách, song trong thực tiễn, hệ thống vẫn đặt nặng kỳ thi, bằng cấp, và xếp loại. Điều này tạo nên một tâm thế học để thi, chứ không phải học để làm, học để đổi mới hay học để sống chủ động trong một thế giới bất định. Ngoài ra, khoảng cách giữa tri thức học thuật và thực tiễn doanh nghiệp, giáo dục đại học vẫn thiên về truyền đạt lý thuyết, trong khi doanh nghiệp cần con người có năng lực giải quyết vấn đề, tư duy hệ thống, và sáng tạo giá trị mới. Việc thiếu các học phần thực tiễn, dự án cộng tác, hay mô hình đào tạo phối hợp đã làm giảm tính ứng dụng của giáo dục trong đời sống kinh tế.

Một số giải pháp đào tạo linh hoạt, thích ứng và bền vững

Về phía Nhà nước, cần xây dựng chiến lược đào tạo nhân lực số cấp quốc gia, có tầm nhìn dài hạn, gắn với chiến lược phát triển kinh tế số và xã hội số. Tích hợp kỹ năng số bao gồm tư duy số, an ninh mạng, sử dụng công cụ số vào toàn bộ chương trình giáo dục phổ thông, đại học và giáo dục nghề nghiệp. Ưu tiên đầu tư hạ tầng số ở vùng khó khăn, bảo đảm tiếp cận công bằng và bao trùm, đồng thời thúc đẩy năng lực số cộng đồng.

Với các cơ sở đào tạo, cần đổi mới chương trình đào tạo theo hướng cá nhân hóa hành trình học tập, lấy người học làm trung tâm, tích hợp học qua trải nghiệm và năng lực thực tiễn. Thiết lập hệ sinh thái học tập linh hoạt, kết hợp giữa học truyền thống, học trực tuyến, học theo dự án, sử dụng nền tảng số mở và tài nguyên học liệu chia sẻ. Tăng cường năng lực số cho giảng viên, bằng chương trình bồi dưỡng liên tục, học tập theo cộng đồng thực hành, và học từ chính trải nghiệm công nghệ.

Đối với doanh nghiệp, cần chủ động tham gia cùng nhà trường thiết kế chương trình đào tạo, cung cấp chuyên gia thực tế, và tổ chức mô hình thực tập, học nghề tại chỗ. Thiết lập lộ trình đào tạo lại và nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động theo chuẩn năng lực số. Đầu tư vào nền tảng học tập nội bộ, tạo văn hóa học tập liên tục trong tổ chức, gắn đào tạo với phát triển năng lực và lộ trình nghề nghiệp.

Đặc biệt, đối với người học, cần phát triển tư duy học tập chủ động, nhận thức được vai trò trung tâm của mình trong hành trình nâng cấp kỹ năng. Chủ động học tập suốt đời, tận dụng nguồn học liệu mở, khóa học trực tuyến, cộng đồng học tập số. Trang bị kỹ năng số như kỹ năng tìm kiếm, phân tích, đánh giá và ứng dụng thông tin trong môi trường số như một phần thiết yếu của năng lực công dân hiện đại.

Kết luận và Kiến nghị chính sách

Chuyển đổi số đang làm thay đổi mọi cấu trúc xã hội, từ quản trị công, sản xuất  kinh doanh đến giáo dục đào tạo. Trong lĩnh vực nguồn nhân lực, chuyển đổi số không chỉ tạo ra những yêu cầu kỹ thuật mới mà còn đặt ra một thách thức sâu sắc về mặt chiến lược, làm thế nào để một quốc gia đang phát triển như Việt Nam có thể bắt kịp, tiến cùng và vượt lên trong một thế giới số hoá?

Những phân tích trong bài viết cho thấy, hệ thống đào tạo nhân lực của Việt Nam đang có khoảng cách giữa hai thái cực: một bên là kỳ vọng đổi mới toàn diện, bên kia là lực cản của thói quen, mô hình tổ chức cũ, và năng lực thể chế hạn chế. Trong khi, theo báo cáo “The Future of Jobs” của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF, 2023), khoảng 44% kỹ năng của người lao động sẽ thay đổi trong vòng 5 năm tới, nhưng hệ thống đào tạo hiện nay vẫn mất trung bình 5-10 năm để cập nhật chương trình, điều này tạo ra độ trễ trong giáo dục thời kỳ chuyển đổi số.

Khi chuyển đổi số được đặt đúng chỗ, không phải như một mục tiêu kỹ thuật, mà như một triết lý tổ chức lại toàn bộ hệ thống đào tạo thì đây sẽ là cơ hội để Việt Nam vượt qua bẫy trung bình về năng lực lao động và tiến đến nền kinh tế tri thức có khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Vì vậy, để hiện thực hóa tầm nhìn nói trên, cần một hệ thống chính sách đồng bộ, từ cấp vĩ mô (chiến lược, thể chế), trung mô (mạng lưới tổ chức đào tạo, doanh nghiệp), đến vi mô (người học, công cụ số). Một số khuyến nghị cụ thể bao gồm:

Thứ nhất là, xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển năng lực số, theo đó cần khẩn trương hoàn thiện “Khung năng lực số quốc gia” dựa trên chuẩn DigComp 2.2 của EU, điều chỉnh phù hợp với đặc điểm văn hóa xã hội Việt Nam. Lồng ghép năng lực số vào khung chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và đại học, đảm bảo học sinh, sinh viên đạt được tối thiểu 3 cấp độ năng lực: sử dụng công cụ số, tương tác số an toàn, và giải quyết vấn đề trong môi trường số.

Thứ hai là, cải cách thể chế giáo dục linh hoạt, cho phép công nhận kết quả học tập từ các nền tảng học trực tuyến uy tín theo mô hình tín chỉ mở. Thúc đẩy các trường đại học phát triển mô hình “Digital University”, tích hợp đào tạo truyền thống và học tập trực tuyến có giám sát, qua đó mở rộng khả năng tiếp cận và cá nhân hóa hành trình học.

Thứ ba là, phát triển mạng lưới đối tác học tập - việc làm, xây dựng cơ chế đối thoại ba bên (Cơ sở đào tạo - doanh nghiệp - cơ quan quản lý) về nhu cầu kỹ năng ngành/lĩnh vực cụ thể, cập nhật hàng năm. Hỗ trợ tài chính và thể chế cho các chương trình đào tạo kép, nơi sinh viên vừa học lý thuyết, vừa tham gia thực hành tại doanh nghiệp.

Thứ tư là, tăng cường năng lực số cho giáo viên và người học, thiết kế chương trình đào tạo giáo viên số cấp quốc gia, bắt buộc giáo viên các cấp phải đạt chuẩn năng lực sư phạm số (Digital Pedagogy). Hình thành các trung tâm học tập cộng đồng tại địa phương, nơi người dân có thể tiếp cận khóa học kỹ năng số cơ bản, qua đó thu hẹp khoảng cách số và bất bình đẳng học tập vùng miền.

Thứ năm là, tạo động lực học tập suốt đời, áp dụng mô hình “Tài khoản học tập cá nhân” (Individual Learning Accounts - OECD, 2022), cho phép mỗi công dân được nhà nước cấp ngân sách đào tạo định kỳ và có quyền tự chọn hình thức học phù hợp. Tổ chức chiến dịch truyền thông quốc gia về giá trị của học tập suốt đời, gắn với phát triển năng lực nghề nghiệp trong thời đại số hóa…

Kết luận

Không quốc gia nào có thể tiến tới thịnh vượng bền vững nếu không đầu tư đúng mức và đúng hướng vào nguồn nhân lực. Trong một thế giới nơi đổi thay là hằng số, thì năng lực học hỏi, thích ứng và đổi mới chính là tài nguyên chiến lược của mọi quốc gia. Đào tạo nhân lực trong thời đại số không chỉ là nhiệm vụ của ngành giáo dục, mà là của cả hệ thống Nhà nước, doanh nghiệp và từng công dân.

Vì thế, tái định hình hệ thống đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, thích ứng chính là con đường đưa Việt Nam từ quốc gia thừa lao động - thiếu kỹ năng thành quốc gia giàu nhân lực sáng tạo, đủ sức bước vào kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo và kinh tế số với tâm thế chủ động, tự tin và bản lĩnh, có như vậy việc phát triển kinh tế xã hội mới đảm bảo bền vững trong kỷ nguyên số.

Tài liệu tham khảo

1. European Commission. (2022). The Digital Competence Framework for Citizens (DigComp 2.2): With new examples of knowledge, skills and attitudes. Publications Office of the European Union.

2. World Economic Forum. (2023). The Future of Jobs Report. Geneva: World Economic Forum. Truy cập: https://www.weforum.org/reports/the-future-of-jobs-report-2023

3. OECD. (2022). Individual Learning Accounts: Panacea or Pandora’s Box? OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/203b21a8-en

4. Senge, P. M. (1990). The Fifth Discipline: The Art & Practice of The Learning Organization. Doubleday/Currency.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. (2022). Chiến lược phát triển giáo dục 2021–2030. Hà Nội.

6. Bộ Thông tin và Truyền thông. (2021). Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030. Hà Nội.

7. Trần Hữu Dũng. (2020). “Chuyển đổi số và bài toán nhân lực Việt Nam”. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 25, tr. 14–19.

8. Nguyễn Thị Minh Phương & Lê Trung Kiên. (2021). “Đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, ĐHQGHN, số 37(2), tr. 33–45.

9. Coursera & World Bank Group. (2023). Global Skills Report 2023. https://www.coursera.org/reports/global-skills-report

10. UNESCO. (2021). Reimagining our futures together: A new social contract for education. Paris: UNESCO Publishing.

PGS.TS Lê Hùng Sơn

Trường Đại học Trưng Vương

Tạp chí in số tháng 7/2025

Bạn đang đọc bài viết Chuyển đổi số và tái định hình đào tạo nguồn nhân lực tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Những mô hình thực tế như FPT, Bắc Ninh hay các startup kỹ thuật tại TP.HCM cho thấy việc gắn kết đào tạo việc làm, khởi nghiệp là chìa khóa nâng cao chất lượng nhân lực, từ đó giúp Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu.

x