Đổi mới chính trị mở đường cho đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình

25/08/2025, 10:37

TCDN - Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó khẳng định rằng tiến hành đổi mới chính trị một cách phù hợp đã tạo điều kiện và củng cố nền tảng cho đổi mới kinh tế. Bài viết đánh giá thành tựu, hạn chế, thách thức và đề xuất định hướng đổi mới chính trị – kinh tế.

Tóm tắt:

Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế tại Việt Nam từ 1986 đến nay. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó khẳng định rằng tiến hành đổi mới chính trị một cách phù hợp đã tạo điều kiện và củng cố nền tảng cho đổi mới kinh tế. Bài viết đánh giá thành tựu, hạn chế, thách thức và đề xuất định hướng đổi mới chính trị – kinh tế trong giai đoạn tới.

Mở đầu

Từ khi khởi xướng công cuộc Đổi mới năm 1986, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế từ mô hình kế hoạch tập trung đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cao, đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt. Trong bối cảnh đó, vai trò của đổi mới chính trị được khẳng định như một nhân tố quan trọng hàng đầu để mở đường, hỗ trợ và thúc đẩy đổi mới kinh tế. Đổi mới chính trị không chỉ giúp khơi thông các nguồn lực, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng, mà còn tạo dựng môi trường chính trị – xã hội ổn định, bảo đảm cho tiến trình phát triển kinh tế theo quy luật khách quan.

1. Quan điểm Mác-Lênin về mối quan hệ chính trị – kinh tế

Giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ xã hội cơ bản, quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật, tư tưởng... C.Mác chỉ rõ: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”, và khi “cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đạo lộn ít nhiều nhanh chóng”.

Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị còn thể hiện ở chỗ, nếu kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi của tư tưởng chính trị và thể chế chính trị. Quá trình đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn chuyển tiếp có tính cách mạng, từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế- xã hội khác, mà còn được thực hiện ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế- xã hội. Mặc dù chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định kinh tế quyết định chính trị, song cũng luôn luôn nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế, điều này thể hiện trên một số phương diện sau:

Thứ nhất, tính độc lập tương đối của chính trị thể hiện ở chỗ, bản thân “chính trị có lôgic khách quan của nó, không phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng khác”. Hơn nữa, chính trị với tư cách là biểu hiện tập trung của kinh tế, do vậy chính trị “là quyền lực nhà nước- cũng là một tiềm lực kinh tế”.

Thứ hai, chính trị tác động trở lại kinh tế, thể hiện ở chỗ chính trị là nhân tố lãnh đạo kinh tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo những điều kiện chính trị, xã hội cho kinh tế phát triển. Do đó, “Chính trị không thể không giữ địa vị hàng đầu so với kinh tế”, và “không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ được sự thống trị của mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất” Thắng lợi của chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế. Việc giành lấy lợi ích chính trị không có mục đích tự thân, mà chỉ là phương thức, là con đường, phương tiện để đạt lợi ích kinh tế và củng cố lợi ích kinh tế.

Chính trị tạo môi trường chính trị- xã hội ổn định, đáp ứng những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của kinh tế. Nói cách khác, chính trị lãnh đạo kinh tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo những điều kiện chính trị, xã hội cho kinh tế phát triển. Đồng thời, chính trị bảo vệ, củng cố, phát triển hay cản trở, cải tạo, xóa bỏ một thành phần kinh tế, một hướng phát triển kinh tế. Trên thực tế, không có đường lối chính trị đúng thì không một giai cấp thống trị nào có thể giữ vững được sự thống nhất chính trị, và do đó, cũng không có khả năng lãnh đạo kinh tế. Một quan điểm hay một thiết chế chính trị sai lầm có tác động rất tiêu cực đối với sự phát triển của kinh tế, của sản xuất. Nó có thể làm tiêu vong toàn bộ những thành tựu kinh tế, hoặc làm cho nền kinh tế phát triển chệch hướng.

Vai trò của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế

Theo quan điểm Mác-Lênin và thực tiễn ở Việt Nam, đổi mới chính trị giữ vai trò then chốt trong tạo dựng môi trường pháp lý, thể chế và ổn định xã hội cho kinh tế phát triển. Chính trị ổn định, với hệ thống chính trị hoạt động hiệu quả, Nhà nước quản lý chặt chẽ và minh bạch, sẽ khơi thông mọi nguồn lực xã hội và tạo động lực phát triển kinh tế. Trái lại, nếu chính trị trì trệ, quan liêu, không tương thích với thực tế mới, thì nó sẽ cản trở sự vận hành của quy luật kinh tế, thậm chí dẫn đến khủng hoảng kinh tế và bất ổn xã hội.

Trong thực tiễn, vai trò của đổi mới chính trị đối với kinh tế còn thể hiện ở việc thiết lập các thể chế kinh tế ổn định và minh bạch (luật doanh nghiệp, luật đầu tư, cải cách tài chính), cải thiện môi trường kinh doanh, và điều tiết kinh tế vĩ mô. Đổi mới chính trị dẫn dắt phát triển thể hiện ở chỗ Nhà nước định hướng, ổn định vĩ mô và tái phân phối nhằm khắc phục thất bại thị trường; đồng thời tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế chủ chốt như ngân sách, lãi suất, chính sách thuế, tiền tệ và ngoại thương. Nhờ vậy, nền kinh tế có điều kiện phát triển bền vững theo đúng các quy luật khách quan, phù hợp với lợi ích xã hội.

2. Quan điểm của Đảng

Thực tiễn và lý luận của Đảng ta từ khi khởi xướng công cuộc Đổi mới năm 1986 đến nay luôn ghi nhận yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Ngay tại Đại hội VI (1986), Đảng ta khẳng định chủ trương: “Kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”. Tinh thần này được liên tục nhấn mạnh trong các kỳ đại hội sau. Hội nghị Trung ương 6 (1989) quy định rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị… Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã… mà không đi đôi với tập trung, thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị”. Đại hội VIII (1996) tiếp tục khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đại hội IX (2001) và X (2006) tiếp tục rút ra bài học phải đổi mới toàn diện, đồng bộ các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, đồng thời có bước đi thích hợp, vững chắc. Đến Đại hội XI (2011), đường lối đổi mới được làm rõ: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội, gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”.

Đảng ta cũng nhấn mạnh quan điểm về ổn định chính trị trong đổi mới. Ổn định chính trị – khi hiểu đúng bản chất – được xem là tiền đề bảo đảm cho các lĩnh vực khác phát triển toàn diện, trong đó Đảng chỉ rõ không chấp nhận “chủ nghĩa đa nguyên chính trị” thay thế chế độ chính trị nhất đảng của Việt Nam. Về đổi mới chính trị, các văn kiện đều khẳng định không thay đổi bản chất chế độ (một Đảng cầm quyền lãnh đạo, nhân dân làm chủ) mà phải đổi mới tư duy, tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị hiện hành. Tóm lại, quan điểm của Đảng về quan hệ kinh tế – chính trị là kiên định với lý luận Mác – Lênin (kinh tế làm then chốt) và phương châm “đổi mới đồng bộ, toàn diện nhưng có bước đi phù hợp”, bảo đảm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường Nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ XHCN và ổn định chính trị – xã hội.

Cuối năm 2024 và đầu năm 2025, Bộ Chính trị ban hành bốn nghị quyết quan trọng nhấn mạnh đổi mới gắn với phát triển: Nghị quyết 57 về KH-CN-ĐMST-Chuyển đổi số, NQ59 về hội nhập quốc tế, NQ66 về xây dựng – thi hành pháp luật, và NQ68 về kinh tế tư nhân. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định “bốn Nghị quyết (bộ tứ trụ cột) … sẽ là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới.”. Các nghị quyết này cho thấy định hướng thống nhất: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển, trong đó đổi mới chính trị được coi là nhân tố dẫn dắt đổi mới kinh tế.

Nghị quyết 57-NQ/TW (22/12/2024): “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Nghị quyết này đặt khoa học-công nghệ (KH-CN) và đổi mới sáng tạo làm “chìa khóa vàng” đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, đồng thời trực tiếp tháo gỡ điểm nghẽn về nhận thức và thể chế, “giải phóng sức sáng tạo, sức lao động, giải phóng nguồn lực đầu tư của toàn xã hội” cho lĩnh vực này. Với những định hướng như vậy, NQ57 thể hiện rõ vai trò định hướng của đổi mới chính trị: Đảng đề ra chủ trương hỗ trợ, thúc đẩy thị trường khoa học và tạo hành lang chính sách cho người dân, doanh nghiệp và nhà khoa học là trung tâm động lực phát triển, trong khi Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy theo hướng thí điểm sáng tạo, chấp nhận rủi ro và khuyến khích đổi mới.

Nghị quyết 59-NQ/TW (24/1/2025): “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”. Theo đó, Đảng yêu cầu “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đổi mới tư duy, nhận thức và hành động trong hội nhập quốc tế trong tình hình mới”. Nghị quyết cũng chỉ ra các phương hướng quan trọng để vừa mở cửa, vừa giữ vững độc lập, như: nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế toàn diện, gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số; đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế và song song với đó hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trong nước. Những định hướng này khẳng định đổi mới chính trị qua lãnh đạo của Đảng và cải cách thể chế là tiền đề để kinh tế hội nhập một cách hiệu quả và bền vững, đồng thời bảo đảm hội nhập không làm mất đi chủ quyền kinh tế – chính trị của đất nước.

Nghị quyết 66-NQ/TW (30/4/2025): “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”. NQ66 nhấn mạnh vai trò then chốt của pháp luật trong phát triển. Nghị quyết ghi nhận trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã rất chú trọng đổi mới xây dựng, thi hành pháp luật, hình thành hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, minh bạch, tạo nền tảng pháp lý cho phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, Đảng cũng chỉ rõ nhiều quy định còn chồng chéo, cản trở đổi mới sáng tạo, khiến yêu cầu phát triển chưa được đáp ứng kịp thời. Việc bổ sung và sửa đổi chính sách, thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp phân quyền… theo tinh thần nghị quyết, là biện pháp đổi mới chính trị thiết thực để giải phóng nguồn lực phát triển, thúc đẩy cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong kinh tế.

Nghị quyết 68-NQ/TW (4/5/2025): “Phát triển kinh tế tư nhân”. Đây là Nghị quyết xác định tư duy mới của Đảng về khu vực kinh tế tư nhân. Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, trở thành “một trong những động lực quan trọng” của nền kinh tế (đóng góp ~50% GDP, ~82% lao động). Nghị quyết đề ra biện pháp “đổi mới tư duy”, cụ thể là xóa bỏ triệt để mọi định kiến, định hướng sai về kinh tế tư nhân; bảo vệ quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh và tạo điều kiện bình đẳng cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực (vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực, dữ liệu). Đảng yêu cầu nuôi dưỡng và khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo của người dân và doanh nhân, xem doanh nhân là “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”.

Các Nghị quyết trên không phải là những quyết sách độc lập mà chúng có mối liên hệ hữu cơ, tạo thành một hệ thống đồng bộ của quá trình đổi mới chính trị, dẫn đường cho đổi mới kinh tế. Mỗi Nghị quyết đều bắt nguồn từ sự đổi mới trong tư duy chính trị về một lĩnh vực cụ thể (KH&CN, hội nhập, pháp luật, kinh tế tư nhân). Sự thay đổi tư duy này là bước đầu tiên và quan trọng nhất, mở đường cho việc xây dựng các chính sách, thể chế cụ thể.

3. Thực hiện đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

3.1. Những kết quả đã đạt được

Giai đoạn 1986–2000: Khởi nguồn Đổi mới

Cuối thập niên 1980, Đại hội VI (1986) của Đảng ta khởi xướng “Đổi mới”, thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường. Đảng và Nhà nước Việt Nam lần đầu tiên thừa nhận hạn chế của cơ chế bao cấp tập trung và xác định “điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, đa dạng hóa hình thức sở hữu”. Thể chế kinh tế từ giai đoạn kế hoạch hóa tập trung dần chuyển sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đặc biệt, Nghị quyết TW 7 (1991) khẳng định “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”; tại Đại hội VIII (1996) nhấn mạnh “sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH”. Luật Đầu tư năm 1987 (sửa năm 1990, 1996) khuyến khích vốn FDI; Luật Doanh nghiệp 1990 tạo tiền đề cho kinh doanh tư nhân. Kết quả là tăng trưởng GDP cao hơn trước (1986–1990 chỉ ~4,4%/năm, sau 1990 cải thiện rõ), thu nhập bình quân và đời sống nhân dân dần nâng lên.

Giai đoạn 2001–2015: Mở rộng và hội nhập

Giai đoạn sau năm 2000, Việt Nam chủ trương hội nhập sâu rộng và cải cách mạnh mẽ thể chế kinh tế. Đại hội IX (2001) chính thức định hình mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là đường lối chiến lược. Trong giai đoạn này, Đảng, Nhà nước ban hành nhiều luật quan trọng (Luật Đầu tư 2005, Luật Doanh nghiệp 2005; Luật Cạnh tranh 2004, cải cách ngân hàng, luật hóa cơ chế tự do hóa ngoại thương chuẩn bị WTO). Hệ thống tổ chức bộ máy được tinh giản từng bước (sát nhập, giảm đầu mối). Theo Báo cáo Chính trị Đại hội XI (2011), công tác cải cách bộ máy, hành chính và pháp luật được đẩy mạnh nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế.

Kết quả đạt được: GDP duy trì tốc độ cao: bình quân 2001–2010 khoảng 6–7%/năm, 2011–2015 khoảng 6%. Việt Nam tham gia WTO (2007), kí nhiều FTA. Khu vực kinh tế tư nhân và FDI phát triển mạnh: đến 2015, đóng góp của khối doanh nghiệp tư nhân (trong và ngoài nước) vào GDP lên tới hơn 57% (khu vực tư nhân trong nước 38,6%; FDI ~19%). Số doanh nghiệp thành lập mỗi năm tăng từ vài chục nghìn lên trên 100 nghìn (năm 2017 riêng 134 nghìn doanh nghiệp mới). Môi trường kinh doanh cải thiện, năng lực điều hành được nâng cao, mức độ minh bạch, tính kỷ luật hành chính từng bước tăng (chỉ số cải cách hành chính quốc gia dần cải thiện hàng năm).

Giai đoạn 2016–nay: Nâng cấp thể chế hiện đại hướng tới chất lượng tăng trưởng ngày càng cao.

Từ Đại hội XII (2016) đến nay, Đảng Việt Nam tập trung hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực quản lý của nhà nước. Nhiều chính sách mới được ban hành: Hiến pháp 2013 (có hiệu lực 2014) nhấn mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền; Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (2017), Luật Cạnh tranh (2018, 2020) củng cố thị trường; Luật Đầu tư (2020) và Luật Doanh nghiệp (2020) cải thiện môi trường kinh doanh; Luật Phòng chống tham nhũng sửa đổi (2018) thắt chặt quản trị công. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đề ra ba đột phá chiến lược (2016) đều là các vấn đề thể chế và công khai minh bạch. Ngoài ra, chính phủ triển khai mạnh mẽ chính quyền điện tử, một cửa quốc gia, cải cách tiền lương – thuế – bảo hiểm xã hội…, nâng cấp năng lực hành chính. Theo Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã tăng 15 bậc trong Bảng xếp hạng Chính phủ điện tử năm 2024 (xếp thứ 71/193, lần đầu vào nhóm “rất cao” với 0,7709 điểm), cho thấy thành tựu hiện đại hóa quản lý.

Kết quả đạt được: tăng trưởng GDP Việt Nam đạt khoảng 7–8%/năm giai đoạn 2016–2019, ổn định vĩ mô (lạm phát thấp, dự trữ ngoại hối cao). Khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục trở thành động lực tăng trưởng (chiếm hơn 55% GDP năm 2022 theo nghị quyết Chính phủ), đóng góp lớn vào việc làm và thu ngân sách. Việt Nam đứng đầu ASEAN về thu hút FDI mới trong các năm gần đây. Hội nhập kinh tế sâu rộng (CPTPP, EVFTA, RCEP) tạo dư địa cho kinh tế phát triển.

3.2. Những hạn chế

Dù đạt nhiều kết quả quan trọng, tiến trình đổi mới chính trị vẫn còn tồn tại những bất cập, ảnh hưởng đến khả năng dẫn dắt và kiến tạo phát triển kinh tế.

Thể chế pháp luật còn một số điểm chưa đồng bộ, thiếu tính khả thi

Hệ thống pháp luật kinh tế hiện nay vẫn tồn tại sự chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho hoạt động đầu tư, sản xuất – kinh doanh. Tình trạng “luật khung, luật ống”, nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn chậm ban hành hoặc thiếu thống nhất, khiến chính sách khó đi vào cuộc sống. Một số chính sách quan trọng liên quan đến đất đai, đầu tư công, đấu thầu, tài chính công vẫn còn thiếu tính minh bạch, tạo kẻ hở cho tham nhũng và làm nản lòng nhà đầu tư, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.

Tổ chức bộ máy quản lý còn cồng kềnh, chồng chéo

Phân quyền giữa trung ương và địa phương vẫn còn hạn chế, thiếu cơ chế rõ ràng để khuyến khích sáng tạo, linh hoạt tại cơ sở. Bên cạnh đó, cải cách hành chính chưa đồng đều giữa các cấp, các địa phương. Tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, cán bộ e ngại trách nhiệm, sợ sai vẫn còn tồn tại, khiến tiến trình thực thi chính sách kinh tế bị chậm trễ, không nhất quán.

Tư duy quản trị chưa theo kịp yêu cầu phát triển mới

Trong nhiều trường hợp, tư duy quản trị hành chính còn nặng về quản lý can thiệp hành chính vào các hoạt động thị trường. Điều này khiến nhà nước chưa phát huy đầy đủ vai trò kiến tạo và hỗ trợ thị trường. Sự lúng túng trong một số hoạt động quản lý các lĩnh vực mới như kinh tế số, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp công nghệ cao là minh chứng cho vấn đề này.

Nguyên nhân của những hạn chế trên nằm ở tư duy đổi mới ở một số nơi chưa đồng bộ, chưa thực sự nhất quán. Một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn tâm lý ngại đổi mới. Từ đó, quá trình cải cách diễn ra cầm chừng, thiếu tính đột phá, nhất là trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, kiểm soát quyền lực và cải cách thể chế. Bên cạnh đó là thiếu cơ chế khuyến khích đổi mới sáng tạo trong khu vực công. Hệ thống đánh giá, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ còn nặng về hình thức, thiếu đánh giá thực chất hiệu quả công việc. Điều này khiến nhiều cán bộ không có động lực cải cách, đổi mới. Các mô hình quản trị thử nghiệm như chính quyền đô thị, thành phố thông minh còn chậm được nhân rộng hoặc chưa đủ đột phá. Đồng thời năng lực thể chế và nguồn lực triển khai còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực, nhất là cấp cơ sở, chưa được đào tạo bài bản về kinh tế thị trường, pháp luật quốc tế, chuyển đổi số... Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cho cải cách thể chế (như hiện đại hóa hạ tầng số, cải cách hành chính, quản trị dữ liệu công) còn phân tán, thiếu trọng tâm và liên tục.

Đánh giá chung

Tổng thể cho thấy, Việt Nam đã có bước đi rõ ràng trong việc xác lập vai trò "dẫn đường" của đổi mới chính trị đối với phát triển kinh tế. Tuy nhiên, việc thể chế hóa các định hướng chính trị thành chính sách kinh tế hiệu quả vẫn là khâu yếu. Bằng việc đặt hai Nghị quyết 66 và 68 trong mối liên hệ hữu cơ với hai Nghị quyết trước đó – số 57 về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; số 59 về hội nhập quốc tế – đã hình thành một chỉnh thể tư tưởng "bộ tứ trụ cột". Đó là nền tảng tư duy cho một mô hình phát triển mới của Việt Nam trong bối cảnh chuyển động nhanh, rộng và sâu của thời đại, là dấu hiệu tích cực cho thấy tư duy về đổi mới chính trị đang được đổi mới sâu sắc hơn, từ nhận thức đến hành động, nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, thúc đẩy năng suất và tăng trưởng bền vững.

4. Định hướng, giải pháp

4.1. Các yêu cầu cần quán triệt

Thứ nhất, cần kiên định quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ kinh tế – chính trị: nhận thức đúng vai trò quyết định của nền tảng kinh tế – xã hội, đồng thời luôn đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò chủ động của nhân dân. Theo Lenin, “Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế” khi xét về phương thức lãnh đạo xã hội; tức là phải luôn đảm bảo đường lối chính trị đúng đắn để huy động, định hướng toàn bộ lực lượng xã hội phát triển kinh tế.

Thứ hai, kiên định con đường XHCN của Việt Nam đi kèm đổi mới thể chế đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Hội nghị TW6 (1989) nhấn mạnh: “Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng… Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị”. Việc mở rộng dân chủ phải gắn với củng cố kỷ luật, kỷ cương của Đảng và Nhà nước, nhằm bảo đảm ổn định chính trị – xã hội.

Thứ ba, cần đổi mới tư duy mang tính khoa học và thực tiễn: nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, không tuyệt đối hóa mặt này, đồng thời tránh sai lệch (không bảo thủ nhưng cũng không cực đoan). Lênin cảnh báo nếu “mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể” mà vội vàng cải cách chính trị, thì có thể gây rối loạn xã hội, mất ổn định chính trị, thiệt hại cho đổi mới. Nhìn vào bài học Liên Xô – Đông Âu (đổi mới kinh tế “sốc” nhưng hủy bỏ cơ chế lãnh đạo chính trị của Đảng), Đảng ta khẳng định phải đi từng bước chắc chắn, lấy phát triển kinh tế làm trung tâm trong giai đoạn đầu.

Cuối cùng, trong quá trình đổi mới cần luôn gắn kết phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh – quốc phòng, giữ vững độc lập chủ quyền. Những yêu cầu này đều được Đảng ta quán triệt rõ trong các nghị quyết và chủ trương vừa qua.

4.2. Giải pháp

Thứ nhất, hoàn thiện mô hình nhà nước pháp quyền XHCN.

Tăng tính độc lập và chuyên nghiệp của hệ thống tư pháp, nhất là Tòa án và các cơ quan điều tra – truy tố – xét xử, nhằm bảo vệ quyền tài sản, quyền khởi nghiệp, quyền đổi mới sáng tạo. Nâng cao chất lượng làm luật, tránh “luật khung, luật ống”, hạn chế quy định chồng chéo. Phải có thiết chế rà soát và phản biện chính sách độc lập trước khi ban hành luật. Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền các cấp theo hướng tinh gọn, hoạt động chuyên nghiệp và giảm tầng nấc trung gian – tạo điều kiện giải phóng nguồn lực cho kinh tế tư nhân.

Thứ hai, thúc đẩy dân chủ, công khai, minh bạch trong quản lý công

Mở rộng thực hiện dân chủ cơ sở, tăng vai trò của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức xã hội trong giám sát chính sách. Minh bạch ngân sách và hoạt động công quyền, công khai hóa thông tin đấu thầu, đầu tư công, phân bổ ngân sách cho các địa phương. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong quản lý hành chính, qua các nền tảng chính phủ số, dữ liệu mở, blockchain… để người dân và doanh nghiệp giám sát hiệu quả hoạt động của bộ máy công quyền.

Thứ ba, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng và cải cách công vụ

Tiếp tục xây dựng và thực thi cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước, đặc biệt tại các cấp chính quyền địa phương. Cải cách tiền lương và tuyển dụng cán bộ, chuyển mạnh sang cơ chế thi tuyển cạnh tranh công khai, đãi ngộ tương xứng với vị trí để thu hút nhân tài thực chất. Số hóa và chuẩn hóa quy trình hành chính công, để giảm thiểu tiếp xúc trực tiếp và chống tiêu cực. Đồng thời, gắn trách nhiệm giải trình với từng cán bộ công chức.

Thứ tư,  đổi mới tư duy quản lý của Nhà nước.

Chuyển từ “chỉ huy” sang “kiến tạo – định hướng”, tập trung thiết kế thể chế, luật chơi công bằng, thay vì can thiệp trực tiếp vào thị trường. Tăng cường năng lực dự báo và phân tích chính sách, xây dựng các cơ quan tư vấn chiến lược độc lập, có tính chất think tank để hỗ trợ hoạch định chính sách kinh tế – xã hội. Mạnh dạn thử nghiệm thể chế mới ở cấp địa phương (sandbox), như mô hình đô thị thông minh, đặc khu công nghệ, hành lang đổi mới sáng tạo – học tập từ Singapore và Thâm Quyến của Trung Quốc.

Thứ năm, phát huy vai trò của Đảng trong kiến tạo thể chế phát triển

Vai trò cầm quyền của Đảng trong kỷ nguyên mới không chỉ là định hướng chính trị, mà cần thể hiện ở năng lực xây dựng hệ thống thể chế quốc gia:

Tiếp tục cụ thể hóa vai trò “lãnh đạo toàn diện, trực tiếp, tuyệt đối” nhưng đồng thời “phân quyền hợp lý”, tránh bao biện, làm thay. Nâng cao năng lực hoạch định và phản biện chính sách, đồng thời tăng cường kiểm tra việc thực thi chính sách ở cơ sở. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tạo động lực cho chính quyền địa phương phát triển năng động, linh hoạt theo nhu cầu thực tiễn.

KẾT LUẬN

Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ rằng kinh tế là nền tảng quyết định, nhưng chính trị cũng đóng vai trò then chốt trong việc tổ chức, dẫn dắt mọi hoạt động xã hội. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm này, đặt nền tảng kinh tế lên hàng đầu, đồng thời từng bước cải cách thể chế và tổ chức chính trị. Những thành tựu lịch sử: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới… chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” – chính là minh chứng rõ nét cho sự đúng đắn đó. Ngược lại, các hạn chế, sai lầm của những mô hình cải tổ vội vàng trên thế giới càng cho thấy phải giữ vững nguyên tắc “đổi mới theo lộ trình phù hợp, lấy kinh tế làm trọng tâm, chính trị ổn định” trong quá trình phát triển.

Vì vậy, tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của đổi mới chính trị mở đường cho đổi mới kinh tế không chỉ là yêu cầu nhận thức mà còn là định hướng hành động chiến lược. Bằng việc quán triệt lý luận khoa học, vận dụng linh hoạt vào thực tiễn Việt Nam, đồng thời kiên định mục tiêu XHCN, chúng ta sẽ tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để nước ta phát triển nhanh, bền vững và vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần 7 Ban Chấp hành Trung ương, khoá VI. Nxb. Sự Thật, H. 1986.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương, khóa VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia H. 1996.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2015.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia H. 2011.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021.

9. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị: Triết học Mác- Lênin, Nxb. Lý luận chính trị, H.2021.

10. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1979, t.16.

11. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1977, t.42.

Ths. Đinh Khắc Nhàn

Học viện Chính trị khu vực I

Tạp chí in số tháng 8/2025

Bạn đang đọc bài viết Đổi mới chính trị mở đường cho đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

Thu ngân sách từ khu vực kinh tế tư nhân tăng 25% trong nửa đầu năm
Cục trưởng Cục Thuế Mai Xuân Thành cho biết, thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2025 từ khu vực kinh tế tư nhân đạt 259.230 tỷ đồng, bằng 125% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, tổng thu ngân sách từ hộ, cá nhân kinh doanh đạt 17.100 tỷ đồng, bằng 131% so với cùng kỳ năm 2024.
Thủ tướng: Khẩn trương trình Đề án Phát triển kinh tế nhà nước
Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính trình Chính phủ trong tháng 8 dự thảo Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế. Khẩn trương trình cấp có thẩm quyền Đề án Phát triển kinh tế nhà nước, bảo đảm đúng tiến độ yêu cầu.

x