Hoàn thiện mô hình giám sát tài chính tại Việt Nam

27/03/2019, 10:07
chia sẻ bài viết

TCDN -
Trong những năm gần đây, thị trường tài chính (TTTC) Việt Nam đã có những bước tiến dài. Tuy nhiên, hiện mô hình giám sát tài chính của Việt Nam còn một số hạn chế, đòi hỏi phải có những thay đổi để đảm bảo sự phát triển an toàn của thị trường này.





TS. Nguyễn Thanh Huyền, Đại học Thương mại cho biết, Việt Nam đang áp dụng mô hình giám sát thể chế, theo đó, mỗi cơ quan quản lý phụ trách giám sát một lĩnh vực riêng biệt. Hoạt động ngân hàng chịu sự giám sát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong đó, đơn vị đầu mối, chủ chốt là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Trong khi đó, hoạt động bảo hiểm chịu sự giám sát trực tiếp của Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm; Thị trường chứng khoán chịu sự giám sát trực tiếp của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Bên cạnh các cơ quan trên, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia có chức năng tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong phân tích, đánh giá, dự báo tác động của TTTC đến kinh tế vĩ mô và tác động của chính sách kinh tế vĩ mô đến TTTC; điều phối hoạt động giám sát TTTC quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm); giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung TTTC quốc gia.

Tuy nhiên, mô hình giám sát tài chính của Việt Nam còn không ít hạn chế. Cụ thể: Thứ nhất, về giám sát an toàn tài chính vĩ mô, điểm yếu của mô hình giám sát tài chính Việt Nam là hệ thống giám sát này không giám sát được mối tương tác giữa các thị trường với nhau. Đặc biệt, khi ngày càng xuất hiện các công ty tài chính đa năng đa ngành ở Việt Nam, họ có thể đầu tư vào thị trường chứng khoán, bảo hiểm, tín dụng. Khi không có một sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan giám sát tài chính chuyên ngành, các công ty này hoàn toàn có thể lách luật và thoát khỏi sự giám sát của các cơ quan chức năng, điều này kéo theo sự mất kiểm soát, mất an toàn của hệ thống tài chính.

Thứ hai, sự tham gia ngày càng nhiều của các tập đoàn tài chính hoạt động đa ngành (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính khác…), cùng với sự xuất hiện ngày càng đa dạng của các công cụ tài chính mới trên thị trường phát sinh nhiều giao dịch phức tạp, tiềm ẩn các rủi ro chéo giữa các ngành và các rủi ro mang tính hệ thống từ sự bất ổn của môi trường kinh tế vĩ mô nhiều biến động cũng như từ các cú sốc bên ngoài. Phương thức giám sát còn bất cập, thiên về giám sát tuân thủ, chưa chú trọng đúng mức giám sát trên cơ sở rủi ro. Ngoài ra, chức năng giám sát thị trường tài chính được phân nhiệm cho nhiều cơ quan khác nhau, nhưng cơ chế phối hợp thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao. Vì vậy, khó giám sát hữu hiệu các rủi ro chéo.

Thứ ba, NHNN Việt Nam chưa phát huy được vai trò trong quản lý, giám sát hệ thống tài chính. Quy trình giám sát của NHNN Việt Nam chưa tạo được sự phối hợp tốt giữa công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Giám sát từ xa còn khó khăn trong việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong bối cảnh các chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng rộng rãi, nhất quán và thiếu hiệu lực cao.

Thứ tư, hệ thống giám sát tài chính tồn tại nhiều cơ quan chuyên ngành nên nảy sinh vấn đề cần phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan giám sát. Hiện nay, ở Việt Nam, các cơ quan giám sát (NHNN, UBCKNN, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và Bộ Tài chính) vừa thực hiện chức năng cấp phép, ban hành cơ chế - chính sách, vừa thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế chính sách và kiêm vai trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các định chế tài chính (ĐCTC). Việt Nam chưa có văn bản quy định rõ chức năng phối hợp giữa các cơ quan giám sát, mặc dù có nhiều văn bản pháp lý liên quan. Điều này dẫn tới xung đột về lợi ích, khiến hiệu quả và hiệu lực giám sát không cao. Bên cạnh đó, các sản phẩm tài chính tích hợp phức tạp giữa lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm khiến việc xác định phạm vi điều chỉnh đối với các sản phẩm này trở nên không rõ ràng.

Bà Lương Thị Hồng Ngân, Đại học Thương mại cho rằng, hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam đang hoạt động phân tán, các cơ quan quản lý và giám sát được thành lập và vận hành giám sát một loại định chế tài chính nhất định. Cơ chế giám sát được thực hiện tách biệt cho từng lĩnh vực kinh tế, phù hợp với điều kiện thị trường ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm còn chưa phát triển và tương đối tách xa nhau, chưa có sự xuất hiện của định chế tham gia vào 2 hoặc tất cả lĩnh vực (mặc dù Bộ Tài chính có 2 cơ quan là UBCKNN, Cục Quản lý giám sát bảo hiểm (QLGSBH), tuy nhiên 2 cơ quan này vẫn độc lập với nhau). Đây là mô hình giám sát phù hợp với đặc điểm kinh tế của Việt Nam trong thời gian đầu xây dựng hệ thống tài chính. Hoạt động của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia chỉ dừng lại ở tham mưu, tư vấn, cho Thủ tướng Chính phủ trong điều phối, giám sát TTTC quốc gia. Như vậy, về bản chất, hệ thống giám sát Việt Nam vẫn mang những đặc tính phân quyền
Có thể thấy, mô hình giám sát của Việt Nam chưa thể hiện rõ cấu trúc cụ thể, do vậy có thể sẽ bị trùng lặp chức năng giám sát giữa 3 cơ quan là NHNN, UBCKNN, Cục QLGSBH và Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia

Bên cạnh đó, hệ thống giám sát tài chính tồn tại nhiều cơ quan chuyên ngành nên nảy sinh vấn đề cần phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan giám sát mặc dù đã đã có ký kết Quy chế phối hợp giữa Bộ Tài chính, NHNN và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Thêm nữa, chức năng giám sát không độc lập với chức năng quản lý. Điều này dẫn tới hiện tượng chức năng bị chồng chéo. Ví dụ như Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng thuộc NHNN có Vụ Quản lý cấp phép các Tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng. UBCKNN có nhiệm vụ cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; chấp nhận những thay đổi liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.

Mô hình hiện tại đang làm giảm khả năng giám sát các tập đoàn tài chính đa ngành, đa lĩnh vực đang tham gia ngày càng nhiều vào cả 3 khu vực kinh tế: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. Mặt khác, mô hình này cũng chưa đủ khả năng phản ứng nhanh trước biến động mạnh và bất thường của thị trường tài chính.

Thực tế, trong thời gian qua, TTTC Việt Nam đã có những bước tiến dài, đòi hỏi hệ thống giám sát tài chính phải có những thay đổi để đảm bảo sự phát triển an toàn của thị trường này.

Theo TS. Nguyễn Thanh Huyền, để khắc phục những tồn tại trên, việc xây dựng và hoàn thiện một mô hình giám sát tài chính phù hợp với bối cảnh Việt Nam cần tập trung vào các vấn đề sau:

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý quản lý, giám sát tập đoàn tài chính phù hợp với từng đối tượng. Bài học này xuất phát từ nghiên cứu thực tế về mô hình giám sát tài chính của Trung Quốc. Mặc dù mô hình giám sát tài chính ở Trung Quốc là mô hình phức tạp, do tồn tại nhiều loại hình tập đoàn tài chính của các chủ thể kinh tế khác nhau, hoạt động trên phạm vi rộng, đầu tư đan chéo. Tuy nhiên, cơ chế quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước nói chung, với tập đoàn tài chính nói riêng ở Trung Quốc có khá nhiều điểm tương đồng với Việt Nam.

Hiện nay, ở Việt Nam, các tập đoàn tài chính tư nhân, tập đoàn tài chính nước ngoài, các tập đoàn tài chính đầu tư đa ngành đã được hình thành và phát triển. Do đó, Việt Nam cần chú trọng và có một khung pháp lý hoàn chỉnh, phù hợp nguyên tắc cơ bản của quốc tế để quản lý, giám sát tài chính đối với các tập đoàn tài chính trong phạm vi quốc gia và cơ chế phối hợp giám sát tài chính trong phạm vi quốc tế, đảm bảo bao quát được tất cả các lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn tài chính (cả chính thức lẫn phi chính thức) trong nước, các tập đoàn xuyên quốc gia. Các luật liên quan đến hoạt động của các ĐCTC phải sửa đổi đảm bảo minh bạch và nhất quán với luật của cơ quan giám sát.

Thứ hai, nâng cao công tác quản trị rủi ro trong hoạt động giám sát. Hiện nay, Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều tập đoàn tài chính hoạt động đa lĩnh vực cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin sẽ tiềm ẩn những rủi ro lớn cho an ninh tài chính quốc gia. Thông qua kinh nghiệm của Singapore, có thể thấy ngoài việc đánh giá rủi ro nội tại, năng lực quản trị rủi ro của một ĐCTC, cơ quan giám sát tài chính Việt Nam cần đánh giá ĐCTC một cách khách quan, chính xác và đầy đủ thông qua việc xem xét tất cả các yếu tố gây nên rủi ro cho một định chế, từ đó giúp đưa ra nhận định đúng đắn nhất về mức độ rủi ro của định chế đó và đánh giá thêm mức độ ảnh hưởng của các định chế đến hệ thống tài chính (HTTC). Đồng thời, cần nâng cao vai trò của những thành viên tham gia thị trường bên cạnh vai trò giám sát của cơ quan chức năng. Muốn vậy, cơ quan giám sát cần phối hợp và lắng nghe phản hồi từ các ĐCTC trong quá trình thực hiện giám sát.

Thứ ba, cần nâng cao hơn nữa vai trò của NHNN Việt Nam trong quản lý, giám sát hệ thống tài chính. NHTW là cơ quan đầu mối thích hợp nhất để thực hiện các mục tiêu giám sát tài chính, vì NHTW có trong tay các công cụ có thể thực hiện được vai trò là người cung ứng thanh khoản cho thị trường, đặc biệt là khi xảy ra khủng hoảng. Điều này đã được chứng minh từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008. Với nhận thức trên, hiện nay ở phần lớn các nước, NHTW vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc giám sát và ổn định tài chính. Hầu hết các nước thuộc khu vực Đông Nam Á như Philippines, Thái Lan, Singapore... đã bổ sung mục tiêu ổn định tài chính vào Luật Ngân hàng trung ương. Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng đóng vai trò cốt lõi trong HTTC, quy mô tín dụng của hệ thống ngân hàng chiếm trên 80% tổng vốn cung ứng ra nền kinh tế. Do đó, tính ổn định của hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định cho khu vực tài chính. Kinh nghiệm quốc tế, cũng như thực tế cấu trúc HTTC của Việt Nam đã chỉ rõ NHNN Việt Nam cần phải là đầu mối trong giám sát an toàn vĩ mô nhằm duy trì ổn định tài chính, tăng cường năng lực thể chế, hiệu lực, hiệu quả thanh tra, giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước mở rộng phạm vi thanh tra, giám sát đến các tập đoàn tài chính dưới hình thức công ty mẹ - con, trong đó công ty mẹ là tổ chức tín dụng.

Thứ tư, nâng cao hiệu lực giám sát cho các cơ quan giám sát chuyên ng nh. Hiện nay, ở Việt Nam, sự chồng chéo, xung đột về chức năng, vai trò và lợi ích giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành khiến hiệu quả và hiệu lực giám sát không cao, đặc biệt là khi ra đời các sản phẩm tài chính tích hợp phức tạp giữa lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Vì vậy, dẫn đến cơ quan giám sát tài chính hiện hành hoặc không nhận diện được hoặc không đủ thẩm quyền để kiểm soát hoặc chưa nằm trong đối tượng điều chỉnh của pháp luật hiện hành, do đó làm hạn chế hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát chuyên ngành. Việc xây dựng và vận hành HTTC được coi là hiệu quả khi tránh được tình trạng chồng chéo hoặc bỏ trống lĩnh vực giám sát. Từ kinh nghiệm giám sát tài chính của Úc và Trung Quốc, có thể thấy rằng Việt Nam chưa cần thiết phải hợp nhất các cơ quan giám sát tài chính do mức độ đan xen các sản phẩm tài chính tích hợp ở Việt Nam chưa quá phức tạp. Tuy nhiên, Việt Nam cần chú trọng nâng cao hiệu lực và năng lực giám sát cho các cơ quan giám sát tài chính chuyên ngành. Đặc biệt, cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành. Các cơ quan giám sát có thể chia sẻ thông tin và quan điểm, thảo luận về cách giải quyết các vấn đề khi trách nhiệm giám sát bị chồng chéo.



Hà Quyên - Tạp chí TCDN số 3/2019
Bạn đang đọc bài viết Hoàn thiện mô hình giám sát tài chính tại Việt Nam tại chuyên mục Tài chính của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

x