Phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất

26/08/2025, 14:19

TCDN - Từ sau đổi mới năm 1986, Việt Nam đã đẩy mạnh phát triển hệ thống khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) với sự tham gia của cả nhà nước và khu vực tư nhân. Tuy nhiên, sự phát triển này hiện đang bộc lộ nhiều bất cập cần được nhận diện và có giải pháp đồng bộ.

Tóm tắt:

Khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) được xem là một trong những động lực chủ lực thúc đẩy công nghiệp hóa hiện đại hóa, đóng vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư, tạo việc làm, phát triển kinh tế vùng và quốc gia. Từ sau đổi mới năm 1986, Việt Nam đã đẩy mạnh phát triển hệ thống KCN, KCX với sự tham gia của cả nhà nước và khu vực tư nhân, trong đó có yếu tố đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sự phát triển này hiện đang bộc lộ nhiều bất cập cần được nhận diện và có giải pháp đồng bộ để đảm bảo phát triển bền vững trong giai đoạn vươn mình của đất nước, bước vào kỷ nguyên số.

Thực trạng phát triển KCN - KCX ở Việt Nam

1. Quy mô và tốc độ phát triển

Tính đến cuối năm 2024, theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( tên gọi trước sáp nhập), Việt Nam đã phê duyệt thành lập 406 khu công nghiệp (KCN), trong đó 292 khu đã đi vào hoạt động, đạt tỷ lệ khoảng 72%, với tổng diện tích đất quy hoạch hơn 87.100 ha. Bên cạnh đó, cả nước hiện có 18 khu chế xuất (KCX) đang hoạt động, chủ yếu tập trung tại TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, và Long An – là những địa phương có cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực phát triển sớm nhất trong cả nước.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký vào các KCN, KCX đến nay đạt trên 131 tỷ USD, chiếm khoảng 47% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Riêng trong năm 2023, các KCN - KCX thu hút gần 10,6 tỷ USD FDI mới, chiếm hơn 45% tổng vốn FDI đăng ký toàn quốc trong năm.

Về đóng góp kinh tế, các KCN - KCX đang giữ vai trò trung tâm trong nền công nghiệp quốc gia, đóng góp khoảng 50 - 52% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đây là minh chứng cho vai trò thiết yếu của các KCN - KCX không chỉ trong thúc đẩy sản xuất mà còn là đầu mối quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

z6946325924948_ba128aaaf56f29e63091a2e133bb7bdd

2. Hiệu quả đầu tư và đóng góp kinh tế - xã hội

Các khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) đã và đang đóng góp một phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong việc tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho người lao động. Tính đến cuối năm 2024, ước tính có khoảng 4,5 triệu lao động đang làm việc tại các KCN, KCX trên toàn quốc, trong đó lao động nữ chiếm khoảng 60%, phần lớn thuộc nhóm lao động phổ thông.

Tiền lương bình quân của người lao động trong các KCN - KCX năm 2024 đạt khoảng 7,2 triệu đồng/tháng, cao hơn khoảng 15 - 20% so với mặt bằng thu nhập của lao động phi chính thức trong khu vực nông thôn. Đồng thời, các KCN - KCX đã góp phần hình thành các đô thị công nghiệp vệ tinh, thúc đẩy dịch vụ - thương mại phát triển và tạo nguồn thu ngân sách ổn định cho địa phương. Theo thống kê của Tổng cục Thuế, thu ngân sách từ các doanh nghiệp trong KCN - KCX chiếm khoảng 25% tổng thu nội địa tại các tỉnh công nghiệp trọng điểm.

Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất trong nhiều KCN vẫn còn là vấn đề đáng quan ngại. Tỷ lệ lấp đầy bình quân của các KCN trên cả nước chỉ đạt khoảng 53,4%, trong đó có nhiều KCN được quy hoạch nhưng chậm triển khai hoặc chưa thu hút được nhà đầu tư thứ cấp. Đặc biệt, tại một số địa phương miền Trung và Tây Nguyên, như: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông,  Lâm Đồng…. nhiều KCN có diện tích lớn nhưng hạ tầng chưa đồng bộ, khiến hiệu suất sử dụng chưa cao.

Ngoài ra, mặc dù thu hút được lượng lớn FDI, nhưng mức độ liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Chỉ khoảng 14% doanh nghiệp FDI có hoạt động liên kết sản xuất cung ứng với doanh nghiệp nội địa, làm giảm hiệu quả lan tỏa công nghệ và giá trị gia tăng trong nước.

3. Tồn tại và bất cập

Theo đánh giá, mặc dù đạt được nhiều thành tựu, quá trình phát triển các khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) tại Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều tồn tại và bất cập, cả về quy hoạch, chất lượng đầu tư, môi trường và liên kết vùng.

Thực tế hệ thống KCN - KCX hiện nay phân bố tập trung chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm như Đông Nam Bộ (chiếm khoảng 45% số lượng KCN cả nước) và Đồng bằng sông Hồng. Trong khi đó, các địa phương thuộc khu vực miền Trung, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có rất ít KCN - KCX được đầu tư bài bản. Ví dụ, khu vực Tây Nguyên hiện chỉ có dưới 10 KCN quy mô lớn, chủ yếu là các cụm công nghiệp nhỏ lẻ, khiến khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển công nghiệp vùng còn hạn chế.

Một trong những thách thức nghiêm trọng là công tác xử lý môi trường trong các KCN. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2024 (Tên gọi trước sáp nhập), vẫn còn khoảng 30% KCN đang hoạt động chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn, hoặc có nhưng vận hành không ổn định. Tình trạng xả thải trực tiếp ra sông suối, kênh rạch vẫn diễn ra ở một số địa phương như Bắc Ninh, Hải Dương, Bình Dương, gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước và ảnh hưởng đến đời sống người dân.

Mặc dù một số khu vực như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng có sự kết nối tốt, nhưng nhìn chung, hạ tầng giao thông kết nối các KCN - KCX với cảng biển, ga đường sắt, sân bay, khu đô thị còn yếu kém, gây gia tăng chi phí vận tải và thời gian giao hàng. Ví dụ, tại một số KCN ở Bắc Giang, Hưng Yên, doanh nghiệp phải mất tới 5 - 7 giờ vận chuyển hàng hóa ra cảng Hải Phòng, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.

Hiện nay, đa số KCN - KCX phát triển theo hướng tách biệt, chưa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch đô thị, dịch vụ và nhà ở. Điều này dẫn đến tình trạng quá tải hạ tầng đô thị tại các vùng công nghiệp, thiếu hụt nhà ở xã hội cho công nhân, gây áp lực lên giao thông, giáo dục, y tế tại các thành phố lớn. Theo thống kê của Bộ Xây dựng, mới chỉ có khoảng 20% nhu cầu nhà ở của công nhân trong KCN được đáp ứng, còn lại phải thuê trọ tại các khu dân cư tự phát với điều kiện sống thiếu an toàn.

z6946325925124_88da8117bcaddd67410d4ee0dc3a45a6

Giải pháp phát triển bền vững KCN - KCX

Nhằm khắc phục những bất cập và hướng tới mô hình phát triển bền vững, việc xây dựng và vận hành các khu công nghiệp - khu chế xuất (KCN - KCX) trong thời gian tới cần đồng bộ các giải pháp về quy hoạch, chính sách, công nghệ và môi trường.

Cần đổi mới tư duy quy hoạch các KCN - KCX theo hướng tích hợp vào quy hoạch không gian phát triển vùng và quốc gia, kết nối đồng bộ với hạ tầng giao thông, đô thị, logistics và cảng biển. Đặc biệt, cần ưu tiên phát triển KCN tại các khu vực có tiềm năng nhưng chưa phát triển mạnh, như Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, để cân bằng không gian phát triển công nghiệp và giảm tải cho các vùng kinh tế trọng điểm truyền thống. Việc này cần dựa trên cơ sở phân tích lợi thế cạnh tranh từng vùng và xây dựng các chuỗi giá trị liên kết nội vùng - liên vùng.

Trước đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trước sáp nhập) đã thí điểm mô hình KCN sinh thái tại 6 tỉnh thành (trong đó có Ninh Bình, Cần Thơ, Đà Nẵng...), và kết quả cho thấy năng suất, hiệu quả sử dụng tài nguyên và mức độ liên kết doanh nghiệp đều tăng đáng kể. Do đó, cần nhân rộng mô hình này trên phạm vi cả nước. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giám sát vận hành, tiến tới xây dựng các KCN thông minh (smart industrial zones) với nền tảng dữ liệu số, tự động hóa, quản trị thông minh, tiết kiệm năng lượng.

Cần điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư theo hướng ưu tiên chất lượng thay vì số lượng, tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, tiết kiệm năng lượng, ít phát thải carbon. Đồng thời, rà soát và cải thiện thủ tục hành chính, đảm bảo tính minh bạch, rút ngắn thời gian cấp phép, tạo môi trường đầu tư thuận lợi và ổn định. Đặc biệt, cần thiết lập cơ chế giám sát - hậu kiểm chặt chẽ, tránh tình trạng “xin đất rồi bỏ hoang” hoặc “phân lô bán nền trá hình” trong các KCN.

Ưu tiên bố trí vốn đầu tư công cho các dự án hạ tầng trọng điểm kết nối KCN với hệ thống cảng biển, đường cao tốc, đường sắt liên vùng. Đồng thời, cần phát triển hạ tầng xã hội trong KCN như: nhà ở công nhân, trường học, bệnh viện, khu dịch vụ, nhằm tạo điều kiện an cư - lạc nghiệp cho người lao động.

Song song, đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là then chốt. Cần tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp - trường nghề - địa phương để đào tạo theo nhu cầu thực tế, đặc biệt trong các lĩnh vực cơ khí chính xác, tự động hóa, công nghệ thông tin, logistics...

Cần bắt buộc các KCN - KCX xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn quốc gia, có cơ chế giám sát hoạt động 24/7 và xử phạt nghiêm vi phạm môi trường. Đồng thời, khuyến khích áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong các cụm doanh nghiệp: tái sử dụng chất thải, tuần hoàn nước, sử dụng năng lượng tái tạo, góp phần giảm thiểu ô nhiễm và phát triển bền vững.

Một số kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội

Thứ nhất là, sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai và Luật Đầu tư theo hướng:

- Cho phép cơ chế linh hoạt trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phát triển KCN - KCX;

- Bổ sung cơ chế giao đất nhanh, rõ ràng, minh bạch cho các dự án KCN có tính chất ưu tiên như công nghiệp công nghệ cao, xanh, tuần hoàn.

Thứ hai là, cải cách chính sách thuế và ưu đãi đầu tư:

- Rà soát, sửa đổi chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi cho nhà đầu tư thứ cấp tại KCN - KCX theo hướng ưu đãi cao hơn trong 5 năm đầu hoạt động;

- Miễn/giảm thuế đất phi nông nghiệp, phí hạ tầng đối với doanh nghiệp sử dụng công nghệ sạch, sản xuất thông minh.

Thứ ba là, tăng cường đầu tư công vào hạ tầng kết nối KCN - KCX:

- Ưu tiên vốn trung hạn để hoàn thiện giao thông liên kết vùng, cảng biển, sân bay, logistics kết nối với các KCN lớn;

- Hỗ trợ vốn vay ưu đãi hoặc đồng tài trợ với địa phương để phát triển hạ tầng kỹ thuật đồng bộ trong KCN.

Với các Bộ, ngành liên quan

* Bộ Tài chính:

- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch các KCN - KCX phù hợp với định hướng phát triển ngành/lĩnh vực ưu tiên của quốc gia;

- Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng đất trong KCN – KCX làm căn cứ rà soát, thu hồi các dự án chậm triển khai.

- Nghiên cứu cơ chế hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng cho nhà đầu tư hạ tầng KCN ở vùng sâu, vùng xa, biên giới;

- Mở rộng chính sách tín dụng thuế và khấu trừ thuế đầu vào đối với đầu tư vào ngành nghề ưu tiên.

* Bộ Nông nghiệp và Môi trường:

- Đẩy nhanh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các KCN đủ điều kiện;

- Tăng cường quy định và hỗ trợ kỹ thuật xây dựng KCN sinh thái, giảm phát thải carbon.

* Bộ Công Thương:

- Phối hợp xây dựng hệ thống năng lượng ổn định, cung cấp điện/nước/gas không gián đoạn cho KCN – KCX;

- Hỗ trợ xúc tiến thương mại, kết nối cung – cầu nguyên vật liệu, thiết bị cho doanh nghiệp trong KCN.

Với chính quyền địa phương

Một là, rút ngắn thủ tục hành chính đầu tư:

- Áp dụng “một cửa liên thông” cấp tỉnh trong xử lý hồ sơ đăng ký đầu tư, cấp phép xây dựng, cấp điện nước;

- Công khai tiến độ xử lý hồ sơ, đơn giản hóa thủ tục liên quan đến thuê đất, cấp GCN đầu tư.

Hai là, chủ động xúc tiến đầu tư có chọn lọc:

- Xây dựng “danh mục kêu gọi đầu tư” minh bạch, rõ lĩnh vực, vị trí, chính sách hỗ trợ cụ thể;

- Ưu tiên nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, công nghệ cao, thân thiện môi trường.

Ba là, phát triển hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp trong KCN – KCX:

- Phối hợp với trường nghề, đại học địa phương đào tạo nhân lực phù hợp;

- Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong KCN thông qua quỹ phát triển công nghiệp địa phương.

Kết luận

Sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) trong hơn ba thập kỷ qua đã đóng vai trò quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa -  hiện đại hóa đất nước. Với hơn 406 KCN được thành lập, hơn 50% giá trị sản xuất công nghiệp và 40% kim ngạch xuất khẩu đến từ khu vực này, KCN -KCX đã trở thành nền tảng chính thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và góp phần nâng cao đời sống cho hàng triệu lao động.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, hệ thống KCN - KCX hiện nay vẫn tồn tại nhiều bất cập về quy hoạch không đồng bộ, thiếu liên kết vùng, ô nhiễm môi trường, chất lượng đầu tư và hiệu quả sử dụng tài nguyên chưa cao. Những thách thức này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh chiến lược phát triển trong giai đoạn tới theo hướng bền vững, xanh, thông minh và tích hợp.

Để hiện thực hóa mục tiêu đó, Việt Nam cần đổi mới tư duy quy hoạch, đẩy mạnh mô hình KCN sinh thái - thông minh, hoàn thiện thể chế chính sách đầu tư có chọn lọc, tăng cường hạ tầng kỹ thuật - xã hội đồng bộ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn trong các KCN. Việc giải quyết hiệu quả các vấn đề này sẽ không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà còn góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024), Báo cáo thường niên về tình hình phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất.

2. Tổng cục Thống kê (2024), Niên giám thống kê Việt Nam năm 2023.

3. Ngân hàng Thế giới (World Bank), Báo cáo môi trường kinh doanh Việt Nam (2023).

4. UNIDO (2022), Hướng dẫn phát triển khu công nghiệp sinh thái tại các quốc gia đang phát triển.

5. CIEM (2023), Chính sách và khuyến nghị phát triển khu công nghiệp bền vững tại Việt Nam.

6. Tạp chí Kinh tế & Phát triển (2023), 'Chuyển đổi mô hình khu công nghiệp tại Việt Nam: từ truyền thống đến thông minh'.

ThS. Trần Thị Ngọc Hà

Khoa Kế toán Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp

Tạp chí in số tháng 8/2025

Bạn đang đọc bài viết Phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất tại chuyên mục Bài báo khoa học của Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác:

email: [email protected], hotline: 086 508 6899

Tin liên quan

Bắc Ninh khởi công khu công nghiệp đầu tiên sau sáp nhập
Sáng ngày 21/8, tỉnh Bắc Ninh khởi công dự án Khu công nghiệp Song Mai - Nghĩa Trung với diện tích trên 197ha, tổng vốn đầu tư hơn 2.800 tỷ đồng. Đây là khu công nghiệp đầu tiên được khởi công sau sáp nhập tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.
Lập Ban Quản lý Khu kinh tế và các khu công nghiệp tỉnh Ninh Bình
Ban Quản lý Khu kinh tế và các khu công nghiệp tỉnh Ninh Bình được thành lập trên cơ sở hợp nhất Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Ninh Bình, Ban Quản lý Khu kinh tế và các khu công nghiệp tỉnh Nam Định và Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Hà Nam.
Sumitomo rót 116 triệu USD vào khu công nghiệp Thăng Long tại Thanh Hóa
Tập đoàn đa ngành Sumitomo Corporation (Nhật Bản) vừa được chấp thuận đầu tư gần 2.918 tỷ đồng xây dựng Khu công nghiệp Thăng Long Thanh Hóa. Dự án trọng điểm rộng 167ha tập trung vào công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy chiến lược phát triển vùng Bắc Trung Bộ với thời hạn hoạt động 50 năm.

x