Cần luật hóa quy định cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước
TCDN - Quá trình cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp thời gian qua chủ yếu thực hiện dưới hình thức chuyển đổi sở hữu là cổ phần hóa, được điều chỉnh bởi Nghị định của Chính phủ nên tính pháp lý chưa cao, đòi hỏi phải Luật hóa các quy định.
Cổ phần hóa, thoái vốn chưa đạt kế hoạch đề ra
Theo báo cáo của Chính phủ, lũy kế giai đoạn 2016 - 2020, đã có 180 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 489.690 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 233.792 tỷ đồng. Tuy nhiên trong 180 doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có 39/128 doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc danh mục được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (đạt 30% kế hoạch).
Số doanh nghiệp chưa hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2020 là 89 doanh nghiệp; những đơn vị còn nhiều doanh nghiệp thuộc danh sách phải thực hiện cổ phần hóa trong năm 2020 là: TP Hà Nội cổ phần hóa 13 doanh nghiệp (4 Tổng công ty), chiếm 14% kế hoạch; Tp.HCM cổ phần hóa 38 doanh nghiệp (11 Tổng công ty), chiếm 40% kế hoạch; Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hóa 6 doanh nghiệp (3 Tập đoàn, 3 Tổng công ty); Bộ Công Thương cổ phần hóa 2 doanh nghiệp (01 Tổng công ty); Bộ Xây dựng cổ phần hóa 2 Tổng công ty.
Về thoái vốn, lũy kế tổng số thoái vốn từ năm 2016 - 2020: thoái 27.312 tỷ đồng, thu về 177.397 tỷ đồng. Trong đó, thoái vốn nhà nước tại 106 đơn vị thuộc Quyết định số 1232/QĐ-TTg và Quyết định số 908/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với giá trị 6.493 tỷ đồng, thu về 13.583 tỷ đồng (đạt 30% về số lượng và 11% về giá trị so với kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt).
Thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp ngoài danh mục theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg: Đã thoái 3.785 tỷ đồng vốn nhà nước, thu về 110.392 tỷ đồng (bao gồm khoản thoái 3.436 tỷ đồng, thu về 109.965 tỷ đồng tại Sabeco. Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước thực hiện thoái 17.032 tỷ đồng, thu về 53.420 tỷ đồng.
Báo cáo Chính phủ nêu rõ, việc đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước còn chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra. Mặc dù đã có sự chỉ đạo, nỗ lực của tất cả các bên có liên quan nhưng mục tiêu cổ phần hóa vẫn tiếp tục bị đẩy lùi thời hạn, doanh nghiệp nhà nước vẫn còn hiện diện trong nhiều ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cần duy trì sở hữu vốn. Còn tư tưởng không muốn thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại.
Chính phủ cũng cho biết, 5 mục tiêu của kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 chưa hoàn thành thì có tới 2 nội dung thuộc cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể, thoái toàn bộ vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thuộc các ngành không cần Nhà nước sở hữu trên 50% vốn; thoái vốn nhà nước xuống mức sàn quy định đối với các ngành mà nhà nước sắp xếp, cơ cấu lại vốn đầu tư.
Đáng chú ý, trong báo cáo Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về quá trình cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 nêu rõ, việc sắp xếp lại, cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước tiến độ còn chậm, đạt tỷ lệ thấp so với kế hoạch, chỉ mới tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng; yếu kém trong công tác định giá doanh nghiệp, triển khai phương án sử dụng đất trong quá trình cổ phần hóa gây thất thoát vốn, tài sản công…
Tăng tính pháp lý từ Luật hóa
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến Dự thảo Đề cương Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (sửa đổi Luật số 69/2014/QH13).
Việc rà soát, sửa đổi bổ sung Luật nhằm cụ thể hóa chủ trương đường lối chính sách của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết (như Hiệp định CPTPP...) và quan điểm đổi mới về quản lý doanh nghiệp nhà nước; phù hợp với các Luật có liên quan trong đó có Luật doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật xây dựng; Luật Đầu tư công... và thực tiễn của quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Theo Bộ Tài chính, Luật số 69/2014/QH13 quy định cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp dưới 3 hình thức: Chuyển đổi sở hữu và sắp xếp lại doanh nghiệp; Chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Chuyển nhượng vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và Chính phủ có trách nhiệm quy định hình thức, nội dung, trình tự, thủ tục cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu theo các hình thức: (i) Cổ phần hóa; (ii) Bán toàn bộ doanh nghiệp; (iii) Bán một phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Doanh nghiệp thực hiện sắp xếp lại theo các hình thức: (i) Hợp nhất, sáp nhập, chia tách doanh nghiệp; (ii) Giải thể, phá sản doanh nghiệp.
“Quá trình cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp thời gian qua chủ yếu thực hiện dưới hình thức chuyển đổi sở hữu là cổ phần hóa. Cơ chế về cổ phần hóa từ trước đến nay được điều chỉnh bởi Nghị định của Chính phủ. Quá trình cổ phần hóa đang có chiều hướng chậm lại; việc cổ phần hóa chỉ được điều chỉnh bởi Nghị định của Chính phủ vì vậy tính pháp lý chưa cao. Một số nội dung quy định đã ổn định, rõ ràng chưa được Luật hóa”, Bộ Tài chính nhấn mạnh.
Để đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp, Bộ Tài chính đề xuất quy định vào Luật trình tự, thủ tục và một số nguyên tắc trong cổ phần hóa như: Phải tổ chức rà soát phê duyệt phương án sử dụng đất trước khi cổ phần hóa theo quy định của pháp luật đất đai và pháp luật về tài sản công; giá trị doanh nghiệp phải được định giá lại sát với thị trường thông qua tổ chức có chức năng thẩm định giá; việc bán cổ phần phải thực hiện theo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch, tối đa lợi ích kinh tế - xã hội cho nhà nước; doanh nghiệp sau cổ phần hóa phải đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán; có chính sách ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp về mua cổ phần và hỗ trợ giải quyết lao động dôi dư.
Nghiên cứu bổ sung quy định quản lý chặt chẽ, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra việc sử dụng đất của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, bảo đảm tuân thủ phương án sử dụng đất đã được phê duyệt trong phương án cổ phần hóa doanh nghiệp; trường hợp doanh nghiệp chuyển mục đích sử dụng đất khác với phương án đã được phê duyệt thì tổ chức thu hồi và đấu giá công khai theo quy định của pháp luật; nghiêm túc thực hiện quy định của pháp luật đất đai về thu hồi đất đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai.
Đồng thời, nghiên cứu bổ sung thêm phương thức chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần dưới hình thức doanh nghiệp cổ phần do các cổ đông là tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nhà ước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Nghiên cứu cơ chế thí điểm mô hình chuyển đổi một số Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước từ hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV) do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ sang hình thức doanh nghiệp cổ phần do các cổ đông nhà nước là tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Thể chế hóa cụ thể Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước nội dung đối với các doanh nghiệp nhà nước đang được giao quản lý, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, khi cổ phần hóa, Nhà nước tiến hành kiểm soát theo nguyên tắc: Nhà nước thống nhất sở hữu các công trình hạ tầng quan trọng; doanh nghiệp cổ phần hóa, nhà đầu tư nhận quyền khai thác chỉ được quyền quản lý, vận hành, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng; việc lựa chọn nhà đầu tư, doanh nghiệp phải thực hiện theo Luật Đấu thầu, công khai, minh bạch; bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.
Bộ Tài chính đánh giá, việc Luật hóa các quy định về cổ phần hóa sẽ đẩy nhanh được quá trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch được giao, đặc biệt giải quyết được vướng mắc lớn nhất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc sắp xếp nhà đất. Định giá doanh nghiệp nhà nước đúng theo quy định ngăn ngừa rủi ro thất thoát vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Quản lý chặt chẽ, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra việc sử dụng đất của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, bảo đảm tuân thủ phương án sử dụng đất đã được phê duyệt trong phương án cổ phần hóa doanh nghiệp.
Công ty cổ phần với các cổ đông là tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ được thành lập vẫn đảm bảo nhà nước đầu tư nắm giữ vốn điều lệ và áp dụng được những ưu điểm của loại hình doanh nghiệp Công ty Cổ phần; tạo ra sự kiểm soát chéo giữa các cổ đông là các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ nhằm giảm rủi ro thất thoát vốn nhà nước.
Nhà nước sở hữu thống nhất các công trình dự án kết cấu hạ tầng do nhà nước đầu tư có ý nghĩa quan trọng về kinh tế xã hội, quốc phòng - an ninh như hạ tầng giao thông, điện lực, cảng hàng không… nâng cao hiệu quả trong việc cho thuê quyền khai thác các tài sản này của Nhà nước, vừa đảm bảo các yếu tố về quốc phòng - an ninh.
Đối với doanh nghiệp, Luật hóa quy định sẽ có cơ sở để thực hiện tiến trình cổ phần hóa nhanh chóng, đúng pháp luật. Giá trị doanh nghiệp được định giá đúng, nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường kinh doanh và thị trường vốn của doanh nghiệp.
email: [email protected], hotline: 086 508 6899